|
Thông
Bạch của đại lão thiền sư Tịnh Khiết được đưa
ra ngày 15.7.1963 thì chiều ngày 16.7.1963 khoảng trên 150 vị
tăng ni tổ chức biểu tình trước tư dinh đại sứ Hoa Kỳ
tại Việt Nam. Họ trương biểu ngữ kêu gọi Hoa Kỳ và các
nước bạn Việt Nam Công Hòa thuyết phục chính quyền Ngô
Đình Diệm thi hành những điều đã được ký kết trong bản
Thông
Cáo Chung.
Từ
ngày 15.7.1963 chư tăng tại chùa Xá Lợi, kể cả các vị lãnh
đạo phong trào trong Ủy Ban Liên Phái Bảo Vệ Phật Giáo,
đã bắt đầu một cuộc tuyệt thực. Rạng sáng ngày 17.7.1963,
một cuộc diễn hành ôn hòa được phát xuất từ chùa Giác
Minh, đường Phan Thanh Giản. Đoàn người này lúc bắt đầu
di thì chỉ có trên 1000 người và chỉ giăng một biểu ngữ:
" Chúng tôi đi thăm thầy chúng tôi đang tuyệt thực để
đòi hỏi thực thi Thông Cáo Chung". Họ vượt qua được
mấy lớp rào cảnh sát và kêu gọi quần chúng gia nhập vào
lực lượng diễn hành của họ. Những biểu ngữ sau đây
được trương lên:
Đoàn
biểu tình đã mấy lần phá được những hàng rào dây thép
gai để tiến tới, nhưng lực lượng cảnh sát và mật vụ
đã được huy động đến quá đông đảo. Được trang bị
đầy đủ, Họ thiết lập những hàng rào kẻm rất kiên cố
và dàn ra phía sau những chiếc xe cứu hỏa. Thiền sư Quảng
Độ, người điều động cuộc diễu hành, đề nghị quần
chúng ngồi xuống mặt đường và tĩnh tâm niệm Phật giáo.
Đoàn người lúc bấy giờ chỉ cách chùa Giác Minh có năm
trăm thước. Sau nửa giờ niệm Phật, quần chúng lặng yên
nghe thiền sư Quảng Độ đứng lên nói về cuộc vận động
của Phật giáo đồ toàn quốc. Dùng loa phóng thanh, ông chậm
rãi nói về chính nghĩa của cuộc tranh đấu. Từ hai đầu
đường Phan Thanh Giản và các đường phố lân cận như Nguyễn
Thiện Thuật, quần chúng đều đứng lại lắng tai nghe. Các
cửa sổ các tầng lầu đều được mở ra; đồng bào xuất
hiện trên sân thượng của nhà cửa hai bên khu phố để nghe
thiền sư thuyết giảng. Lực lượng cảnh sát dùng ống loa
đinh che lấp tiếng nói của ông, nhưng máy phóng thanh của
chùa Giác Minh khá mạnh: tiếng nói của thiền sư Quảng Độ
vẫn còn được nghe rất rõ. Vào lúc 10 giờ 30 cuộc đàn
áp thật sự bắt đầu. Cảnh sát và mật vụ xông vào cướp
giật biểu ngữ. Tăng ni và những người điều động cuộc
diễu hành bị tấn công bằng báng súng và gậy gộc trước
con mắt của giới báo chí và quan sát viên quốc tế. Tiếng
la hét của phụ nữ và trẻ em vang dậy. Có nhiều vị tăng
ni bị đánh ngã quỵ. Có nhiều vị khác bị liệng lên xe
cảnh sát và bị chở đi. Bị đàn áp dữ dội, đoàn biểu
tình rút lui từ từ về chùa Giác Minh và chùa Từ Quang sát
cạnh. Cảnh sát theo sát họ tới cổng chùa và thiết lập
một hàng rào dây thép gai để phong tỏa chùa. Trên 600 tăng
ni và phật tử bị cô lập trong chùa hơn hai ngày đêm như
thế.
Cũng
vào sáng ngày 17.7.1963 khoảng 400 vị tăng ni đến tập họp
tại chùa Xá Lợi. Sau khi lễ Phật và mặc niệm tại chánh
điện chùa, họ sắp hàng diễn hành từ đường Bà Huyện
Thanh Quang qua đường Lê Văn Thạch lên đường Nguyễn Thông,
Ngô Thời Nhiệm, Lê Văn Duyệt, và đi về hướng chợ Bến
Thành. Họ vượt qua được mấy hàng rào kẽm gai và tiến
được về vườn hoa của Nam chợ Bến Thành. Cuộc diễn hành
này, nhờ tính cách bất ngờ của nó, đã làm cho các lực
lượng cảnh sát đối phó không kịp trong bước đầu. Đến
khi các lực lượng này được huy động đầy đủ thì đa
số chư tăng ni đã đến được chợ Bến Thành, tăng ni trương
lên những biểu ngữ: "Yêu cầu chánh phủ thực thi bản
Thông
Cáo Chung"Lúc này các lực lượng cảnh sát chiến đấu
đã vây quanh đám biểu tình, dưới quyền chỉ huy của viên
giám đốc cảnh sát Trần Văn Tư. Ông Trần Văn Tư yêu cầu
chư tăng ni hạ cờ Phật giáo và các biểu ngữ xuống, nhưng
không ai tuân lệnh. Vị đại diện tăng ni đứng lên xin nói
về mục đích của cuộc biểu tình diễn hành. Ông giám đốc
nha cảnh sát chỉ cho phép vị này được nói trong năm phút,
"mau lên còn để chúng tôi thi hành nhiệm vụ". Đại diện
cho chư tăng ni nói: "Chúng tôi tới đây để tỏ cùng quốc
dân dồng bào biết rằng: Bản Thông Cáo Chung đã ký
kết hơn một tháng nay nhưng chính phủ đã không thực thi
nghiêm chỉnh mà còn dùng đủ mọi cách để khủng bố, bao
vây, bắt bớ, đàn áp, xuyên tạc Phật giáo đồ".
Lúc
này, đồng bào trong chợ đã đổ xô ra rất đông, và từ
các ngả đường quần chúng cũng kéo tới chật ních. Sau khi
phát biểu xong, vị đại diện yêu cầu lực lượng cảnh
sát giải tỏa để chư tăng được diễn hành về chùa Xá
Lợi. Ông Trần Văn Tư không chịu, quyết định dùng "những
biện pháp thích nghi" để ngăn chặn cuộc diễn hành trở
về chùa Xá Lợi mà ông biết là sẽ vô cùng đông đảo.
Trong khi chờ đợi sự giải tỏa của cảnh sát, các vị tăng
ni ngồi xuống đất và bắt đầu niệm Phật. Cuộc đàn áp
bắt đầu, cảnh sát xông vào, bắt liệng các vị tăng ni
lên xe bịt bùng. Chư tăng chóng cự lại bằng cách quàng lấy
tay nhau từng chuỗi dài. Tình thế trở nên hỗn loạn.
Thấy
cuộc đàn áp xảy ra trước mặt quần chúng đông đảo như
vậy là không hay, ông giám đốc cảnh sát đổi sách lược.
Ông ra lệnh ngừng sự bắt ép và đích thân tới điều đình
với các vị điều động cuộc diễn hành, hứa sẽ dùng xe
cảnh sát chở tất cả chư tăng ni về chùa Xá Lợi.
Thấy
cuộc biểu tình đã đạt được nhiều kết quả và chư tăng
ni nhiều người đã bị mất sức, thêm nữa thấy ông giám
đốc cảnh sát đã lấy danh dự mà hứa sẽ chở chư tăng
ni về chùa Xá Lợi, vị đại diện bằng lòng để cho tăng
ni lên xe. Nhưng những chiếc xe này, khi đến ngã tư Tổng
Đốc Phương, thay vì chạy về chùa Xá Lợi, lại rẽ hướng
về Lục Tỉnh. Thấy mình bị lừa, chư tăng ni đập cửa
xe rầm rầm. Các vị ngồi trước lấy chân đạp thắng xe,
và gạt tay lái cho xe đâm vào lề đường. Nhiều vị mở
cửa xe phóng xuống đường khi xe đang chạy. Thấy vậy các
xe cảnh sát phải ngừng lại. Tất cả các vị tăng ni đều
tập hợp lại thành một khối giữa công lộ. Cảnh sát lại
dùng dây thép gai vây họ lại. Hai vị cảnh sát trưởng đến
gần chư tăng, xưng lại đại diện ông giám đốc cảnh sát,
hứa lần này sẽ thực sự cho tăng về chùa Xá Lợi. Sợ
bị gạt lần nữa, chư tăng ni không ưng thuận, chỉ yêu cầu
được tự do đi bộ về chùa xá lợi. Họ ngồi xuốt đất
để đòi hỏi sự giải tỏa của lực lượng cảnh sát. Nhưng
cảnh sát không giải tán. Cuộc đàn áp lại xay ra, khốc liệt
gấy mấy lần trước: chư tăng ni bị đánh đập và ném lên
xe như những con thú vật. Quần chúng ở đây không đông đảo
như ở chợ Bến Thành và giới báo chí không có mặt, vì
vậy chư tăng ni bị hành hung một cách tàn nhẫn: có vị bị
thoi vào những nơi hiểm yếu, có vị bị bóp họng, có vị
bị đấm đá túi bụi.
Các xe cảnh sát
chở đầy tăng ni phóng nhanh khỏi thành phố đến chùa Hoa
Nghiêm ở An Dưỡng Địa, một khu nghĩa địa lớn nằm trong
khoảng đồng trống miền Phú Lâm. Tại đây cảnh sát đã
được túc trực và giấy thép gai đã được giăng thành hàng
rào bốn phía. Tất cả tăng ni đều bị cô lập tại đây.
Chiều đến, lực lượng bố phòng của cảnh sát được tăng
cường hùng hậu.
Vào
khoảng nửa đêm, cảnh sát có võ trang súng ống đột nhập
vào phòng chư tăng để xét hỏi, điều tra lý lịch, và tra
hỏi xem ai là người xúi giục họ đi biểu tình. Những vị
tăng sĩ Việt gốc Miên được tra hỏi cặn kẻ hơn cả.
Chiều
ngày hôm sau, 18.7.1963, nhân viên công quyền đến bắt tăng
ni đi khai lý lịch, in dấu tay và chụp hình: họ bảo đó
là thủ tục thông thường phải làm trước khi các vị tăng
ni được trả tự do, và hứa là vào ngày mai 19.7.1963 họ
sẽ mời Ủy Ban Liên Phái tới để trao trả chư tăng ni về
chùa Xá Lợi.
Trưa
19.7.1963, đột nhiên nhiều xe cảnh sát được đưa tới và
cảnh sát đòi chở chư tăng ni về chùa Xá Lợi, không thấy
có vị địa diện nào của Ủy Ban Liên Phái, chư tăng ni không
chịu lên xe, cương quyết ở lại chờ lệnh.
Sáng
20.7.1963, đột nhiên tất cả những hàng rào giây thép gai
và những lực lượng cảnh sát phong tỏa An Dưỡng Địa biến
mất, và ông Ngô Trọng Hiếu, bộ trưởng Công Dân Vụ và
Trần Văn Tư giám đốc cảnh sát xuất hiện với một đoàn
báo chí Việt Nam và ngoại quốc. Trước mặt các ký giả
và nhiếp ảnh viên, ông Trần Văn Tư giải thích rằng sở
dĩ chư tăng ni được giam giữ tại đây là vì họ biểu tình
bạo động và bất hợp pháp và đã hành hung các nhân viên
công lực. Thiền sư Chánh Lạc đại diện cho chư tăng ni đứng
lên giải thích cho báo chí nghe về mục đích và lập trường
đấu tranh bất bạo động của phật tử, cải chính những
điều vu khống của ông giám đốc Cảnh sát, rồi trả lời
rành rẽ từng câu hỏi cả các phóng viên đặt ra.
Sau
đó, đoàn tăng ni quyết định theo phái đoàn báo chí về
Sài Gòn. Đoàn người đến Phú Lâm thì, sau khi để cho giới
báo chí đi khỏi, một toán cảnh sát chiến đấu ngăn chặn
tất cả tăng ni lại. Thiền sư Chánh Lạc đề nghị toàn
thể ngồi xuống mặt đường niệm Phật. Trong khi các vị
đại diện tăng ni đối thoại với cảnh sát thì một phái
đòan của Ủy Ban Liên Phái do thiền sư Thiện Minh hướng
dẫn, đến kịp. Kết cuộc là chư tăng được đưa về chùa
Xá Lợi bằng xe đò, có một đoàn xe bình bịch của cảnh
sát dẫn lộ.
Vào lúc 12 giờ 15, đoàn xe tới trước cổng chùa Xá Lợi. Bấy giờ họ được thiền sư Tịnh Khiết, các thiền sư khác trong Ủy Ban Liên Phái và quần chúng túc trực sẵn ở đây đón tiếp. Thiền sư Tâm Châu, chủ tịch Ủy Ban Liên Phái cảm động trước những hy sinh và chịu đựng của chư tăng ni trong bốn ngày bốn đêm vừa qua, đã đứng dậy lạy tạ đại chúng. Cử chỉ này đã làm cho mọi người xúc động. Những vị tăng ni trọng thương được đưa ngay vào chăm sóc. Sau khi kiểm điểm, số tăng ni bị bắt hoặc mất tích lên gần tới năm chục vị(183) Báo chí và các đài truyền thanh truyền hình quốc tế đã đăng tải đầy đủ về những cuộc biểu tình nói trên tại Sài Gòn. Quần chúng tại quốc nội theo dõi các đài B.B.C, V.O.A, biết rất rõ những gì đã xảy ra tại Sài Gòn va những dư luận xôn xao trên thế giới.
Trong lúc đó,
tất cả các cấp lãnh đạo trong Ủy Ban Liên Phái vẫn tiếp
tục tuyệt thực tại chùa Xá Lợi.
Chính
quyền Ngô Đình Diệm biết rõ những gì đang xảy ra trên
dư luận quốc tế, nhất là dư luận người Mỹ. Những ký
giả như David Halberstam của tờ New York Times viết trên
báo này rất nhiều bài bất lợi cho chế độ Sài Gòn. Ký
giả này nói chính phủ Ngô Đình Diệm đã bị nhân dân ghét
bỏ, và vấn đề lật đổ chính quyền Diệm chỉ là vấn
đề thời gian. Thượng nghị sĩ Hoa Kỳ Wayne L. Morse tuyên
bố ngày 19.7.1963 rằng ông không đồng ý cho Hoa Kỳ viện
trợ thêm một đồng nào nữa cho chính quyền Ngô Đình Diệm.
Tin tức những ký giả Hoa Kỳ bị cảnh sát hành hung được
các báo chí ở Hoa Tịnh Đốn và Nữu Ước đăng tải. Tờ
Hoa
Thịnh Đốn Thời Báo (Washingtin Post) đã viết những bài
bình luận sau đây ngày 19.6.1963: "Cuộc tranh chấp không
còn là một biến động có tính cách địa phương nữa. Vì
chế độ ông Diệm liên hệ mật thiết quá đối với Hoa
Kỳ, nên cái nguy cơ Phật giáo đồ ở khắp Á châu sẽ có
cảm tưởng rằng dù sao Hoa Kỳ cũng dung túng trước sự kỳ
thị tôn giáo. Tuy đó là một cảm nghĩ sai lầm nhưng dù sao
đồng minh của một chế độ độc tài và áp bức cho nên
Hoa Kỳ cũng bị ảnh hưởng."
Tổng thống Ngô
Đình Diệm nhìn thấy nguy cơ của mình. Ngày 18.7.1963 ông lên
tiếng trên đài phát thanh Sài Gòn. Ông đọc những thông điệp
để xoa dịu tình hình. Thông điệp được lặp đi lặp lại
nhiều lần trên đài phát thanh. Ông nói:
"Để
tỏ rõ chủ trương của chính phủ cương quyết thi hành đúng
đắn và hữu hiệu Thông Cáo Chung và để đánh tan mọi
hồ nghi hoặc mưu mô xuyên tạc chia rẽ, chiếu theo đề nghị
của Hội Đồng Liên Bộ, tôi vừa chấp thuận:
1-
Chỉ thị của nghị định số 358 ngày 9 tháng 7 năm 1963 ấn
đinh thể thức treo cờ Phật giáo. Thể thức này đã áp dụng
riêng cho Tổng Hội Phật Giáo sẽ áp dụng cho bất tất cả
các môn phái nào tự ý công nhận Phật giáo kỳ.
2-
Chỉ thị Ủy Ban Liên Bộ hợp tác mật thiết với phái đoàn
Phật giáo để cùng nghiên cứu điều tra giải quyết hoặc
theo hồ sơ hoặc tại chỗ nếu cần những khiếu nại liên
quan đến sự thực thi Thông Cáo Chung.
3- Chỉ thị các cấp quân dân chính mỗi người trong lĩnh vực của mình, trong lời nói cũng như trong việc làm, tích cực góp phần vào việc thực thi Thông Cáo Chung. Tôi mong rằng quốc dân đồng bào ghi nhận ý chí hòa giải tột bực của chính phủ trong vấn đề Phật giáo và tôi yêu cầu quốc dân đồng bào từ nay sẽ khách quan phán quyết để có thái độ hành động, không để ai làm ngăn cản bước tiến của tân tộc trong nhiệm vụ diệt Cộng cứu quốc". Lời kêu gọi "ghi nhận ý chí hòa giải tột bực của chính phủ" được nói lên trong khi chùa Xá Lợi, Giác Minh, Ấn Quang tại Sài Gòn và nhiều ngôi chùa khác trên khắp lãnh thổ còn bị phong tỏa và trên 300 vị tăng ni đang bị vây hãm tại An Dưỡng Địa, và hơn bốn trăm tăng ni khác rải rác trong toàn quốc đang bị giam giữ. Sáng ngày 19.7.1963, thiền sư Tâm Châu gửi một văn thư cho tổng thống Diệm để đáp lời hiệu triệu của ông. Trong lá thư thiền sư ghi nhận lời hiệu triệu này của tổng thống và yêu cầu ông cấp tốc phóng thích tất cả những ai bị chính quyền giam giữ từ ngày 8.5.1963, bồi thường cho các nạn nhân cuộc thảm sát ấy. Đồng thời ông cũng báo tin rằng các chùa Xá Lợi, Ấn Quang và Giác Minh, sau khi được giải tỏa vào khoảng nửa giờ vào sáng 8.5.1963, đã bị các lực lượng cảnh sát phong tỏa trở lại. Ông kết luận: "Các vấn đề trên được giải quyết xong, chúng tôi mới có thể hợp tác với Ủy Ban Liên Bộ mà nghiên cứu, xem xét những vấn đề khác để cho cuộc hòa giải được hoàn toàn tốt đẹp. Lập trường Ủy Ban Liên Phái, do đó là sẽ không chấp thuận việc cộng tác với chính quyền để thành lập Ủy Ban Hổn Hợp chừng nào những điều căn bản nhất của Thông Cáo Chung chưa được thực thi. Văn thư trao đổi giữa Ủy Ban Liên Phái và Ủy Ban Liên Bộ trong thời gian từ ngày 19.7.1963 đến 30.7.1963 phần lớn là để đề cập tới vấn đề này. Về phía Phật giáo, Ủy Ban Liên Phái tiếp tục công bố những tài liệu vi phạm Thông Cáo Chung của chính quyền: những vụ mất tích tăng sĩ, những vụ ám sát và đã thương phật tử, những vụ rãi truyền đơn giả tạo để chống phong trào đấu tranh cho năm nguyện vọng v.v…(184) .
Các báo chí thủ
đô đều nằm trong tay chính quyền cho nên Ủy Ban Liên Phái
phải thiết lập một hệ thống truyền tin đặc biệt. Các
thiền sư Quảng Độ và Đức Nghiệp là những người phụ
trách liên lạc với các ký giả quốc tế và các tòa lãnh
sự ngoại quốc tại Sài Gòn: mỗi khi có tin tức gì cần
thông báo, các vị dùng điện thoại, hoặc của chùa, hoặc
của những tư gia quanh chùa. Nhiều khi bản tin được truyền
đi trên những mảnh giấy nhỏ và được điện thoại cho
giới báo chí từ những địa điểm rất xa chùa. Cùng với
những vị thông thạo sinh ngữ khác, họ dịch những bài báo
ngoại quốc có liên hệ đến cuộc tranh đấu để phổ biến.
Họ thu thanh những bản tin do các đài phát thanh ngoại quốc
truyền đi và chép thành những bản tin. Thiền sư Châu Toàn
điều động một số nhân viên ngày đêm ấn hành những bản
tin này bằng máy in phức bản (stencils). Tài liệu được chuyển
đi các trung tâm khác ở thủ đô để được in lại và phổ
biến. Tại Huế và các trung tâm đấu tranh khác như Quảng
Trị, Quảng Nam, Nha Trang, Đà Lạt, Bình Long, Ninh Thuận, Bình
Thuận, Gia Định v.v… đường lối thông tin và tranh đấu
cũng được phỏng theo phương thức này.
Trong
suốt thời gian tranh đấu, ngày nào quần chúng cũng đến
chùa rất đông đảo để lễ Phật. Ngồi tuyệt thực và
ủng hộ Ủy Ban Liên Phái. Các thiền sư Giác Đức và Hộ
Giác phụ trách thuyết giảng trong các buổi tập hợp và tuyệt
thực này. Họ giải thích cho quần chúng rõ lập trường của
Phật giáo, thái độ của chính quyền, tố cáo những hành
động vi phạm Thông Cáo Chung và nói về dư luận quốc
tế đối với cuộc tranh đấu đòi thực thi Năm Nguyện
Vọng. Hai vị đều là những thiền sư trẻ và có tài
hùng biện.
Trong
guồng máy chính quyền, thậm chí trong các lực lượng an ninh,
cảnh sát mật vụ đã có nhiều người đứng về phía tranh
đấu. Ủy Ban Liên Phái luôn luôn được thông báo trước
về những biện pháp đàn áp của chính quyền. Cuộc biểu
tình của hơn 100 thương phế binh trước chùa Xá Lợi ngày
23.7.1963 do chính quyền tổ chức để chống đối phong trào
Phật giáo cũng đã được Ủy Ban Liên Phái biết được và
thiền sư Tâm Châu đã gửi thư đến chính quyền để phản
đối ngay 22 tháng 7 năm 1963. Trong một thư đề ngày 22 tháng
7 năm 1963, thiền sư cũng cho chính quyền biết là ông Ngô
Trọng Hiếu, bộ trưởng Công Dân Vụ đang cho 300 cán bộ
cạo đầu giả làm tăng sĩ để đi quyên tiền và đặt may
cờ cho Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam, đang tổ chức một
cuộc biểu tình khác cho cô nhi và quả phụ chiến sĩ, và
một cuộc biểu tình khác nữa cho những người hành khất
và những người có bệnh hủi, xúi giục những người này
vào chùa Xá Lợi để khiêu khích và để cảnh sát có cớ
vào chùa(185).
Ủy
Ban Liên Phái đã in sẵn một lá thơ để phát cho những người
tự nhận là thương phế binh đến biểu tình trước chùa
Xá Lợi ngày 23 tháng 7 năm 1963. Lá thư này rất ôn tồn, giải
thích cặn kẽ về cuộc đấu tranh của Phật giáo, ghi nhận
sự đóng góp và hy sinh của các thương phế binh cho công trình
bảo vệ miền Nam và kêu gọi thương phế binh tham dự vào
cuộc tranh đấu đòi dân quyền và bình đẳng tông giáo(186).
Chiều
23.7.1963 nha Tổng Giám Đốc Thông Tin triệu tập một cuộc
họp báo, cho biết rằng trung tá Trần Thanh Chiêu, thanh tra
trung ương dân vệ đoàn và tác giả các cuộc biểu tình của
thương phế binh hồi sáng đã bị chính quyền cách chức và
phạt 40 ngày ngày trọng cấm. Ngay sau đó, thiền sư Tịnh
Khiết viết thư cho tổng thống Diệm xin khoan hồng cho trung
tá Chiêu, vì theo thiền sư: "Không bao giờ vị sĩ quan ấy
có ý tự mình làm một việc công khai chống lại mệnh lệnh
của tổng thống nếu không có một áp lực từ bên ngoài
nào đó"(187).
Chiều
ngày 24.7.1963, Ủy Ban Liên Phái nhận được một lá thư từ
các thương phế binh gửi tới chùa Xá Lợi. Lá thư này bày
tỏ sự ủng hộ của thương phế binh đối với cuộc tranh
đấu của Phật giáo đồ và phàn nàn về nhóm người đã
lợi dụng danh nghĩa thương phế binh để làm những điều
phản lại nguyện vọng của thương phế binh. Lá thư này mang
chữ ký của mười đại diện thương phế binh(188).
Ngày 1.8.1963 khoảng 300 anh em thương phế binh đã tự động
tập họp tại chùa Xá Lợi, làm lễ Phật ở chánh điện.
Đại diện củahọ đến gặp thiền sư Tâm Châu của Ủy
Ban Liên Phái và phát nguyện ủng hộ cuộc tranh đấu.
Ngày
23.7.1963, ni sư Diệu Huệ mở cuộc họp báo tại chùa Xá Lợi
cho biết bà sẽ thiêu thân để chống lại chính sách kỳ
thị tôn giáo của chính quyền Ngô Đình Diệm. Ni sư Diệu
Huệ là thân mẫu của nhà bác học Bửu Hội, lúc bấy giờ
làm đại sứ cho chính quyền Ngô Đình Diệm tại nhiều nước
thuộc về miền Tây Phi Châu.
Ngày
30.7.1963, lễ chung thất (49 ngày) của thiền sư Quảng Đức
được tổ chức long trọng tại chùa Xá Lợi.
Hưởng ứng lời kêu gọi của Ủy Ban Liên Phái, đồng bào thủ đô đổ dồn về chùa ngay từ hồi tang tảng sớm mặc sự ngăn cản và đe dọa của các giới công an và cảnh sát. Quần chúng chật ních cả vòng trong lẫn vòng ngoài của chùa. Sau lễ cầu nguyện cho giác linh thiền sư Quảng Đức, một bản Tuyên Ngôn của Ủy Ban Liên Phái được phổ biến, kêu gọi đồng bào đẩy mạnh cuộc tranh đấu bất bạo động. Ngày 1.8.1963, thiền sư Tịnh Khiết gửi một điện văn cho tổng thống John F. Kennedy, phản đối việc ông đại sứ Hoa Kỳlà Frederic Nolting tuyên bố với hãng thông tấn U.P.I rằng không có chuyện kỳ thị tôn giáo và ngược đãi Phật giáo đồ tại Việt Nam.
Ngày 4.8.1963,
trong khi chư tăng ni và tín đồ Phật giáo Bình Thuận đang
còn tuyệt thực ở chùa Hội Quán tỉnh hội, thiền sư Nguyên
Hương châm lửa tự thiêu mình ở đài chiến sĩ ngay trước
tỉnh đường Bình Thuận (Phan Thiết).
Thiền
sư Nguyên Hương tục danh là Huỳnh Văn Lễ, sinh năm 1940 tại
làng Long Tỉnh, Quận Tuy Phong, tỉnh Bình Thuận. Ông xuất
gia năm 18 tuổi, theo học với thiền sư Viên Trí chùa Bửu
Tích. Năm 20 tuổi, ông thọ đại giới, và có đạo hiệu
Đức Phong. Ông nhận chức trú trì chùa Bửu Tạng ở Bình
Thuận từ tháng 9 năm 1962. Ông thiêu thân một mình, không
cho ai hay biết. Trước khi thi hành một bản nguyện ông để
lại một lá thư gửi thiền sư Tịnh Khiết, một lá thư khác
gửi bổn đạo chùa Bửu Tạng và một lá thư khác gửi song
thân. Nội dung những bức thư này là ý nguyện của ông muốn
đóng góp vào những nỗ lực tranh đấu để chấm dứt tình
trạng đàn áp Phật giáo đồ. Trong lá thư gửi song thân,
ông xin hai người tinh tiến niệm Phật và đừng trách cứ
gì vị bổn sư của ông là thiền sư Viên Trí, vì thiền sư
này không hay biết gì về bản nguyện tự thiêu của ông(189).
Thiền
sư Nguyên Hương, hiệu Đức Phong, tuy mới có 23 tuổi, nhưng
đã có định lực khá vững vàng. Ông ngồi yên trong lửa
đỏ cho đến khi ngã xuống. Đồng bào thấy lửa cháy đến
bao quanh đài chiến sĩ. Một đơn vị quân đội được lập
tức huy động tới để giải tán quần chúng và chở thi hài
ông về bệnh viện Phan Thiết. Đồng bào kéo tới bệnh viện,
nhưng các nhân viên công lực đã kéo đến phong tỏa bệnh
viện này.
Tuy
vậy, trước khi bệnh viện bị phong tỏa, khoảng 20 vị vừa
tăng ni vừa thanh thiếu niên phật tử đã lọt vào được
bệnh viện để túc trực bên thi thể thiền sư Nguyên Hương.
Sau khi bệnh viện bị phong tỏa, những người này không ra
được nữa. Quần chúng kéo đến bệnh viện càng lúc càng
đông. Tăng ni và phật tử ngồi xuống trước cổng bệnh
viện và bắt đầu tụng niệm cầu siêu cho giác linh người
mới khuất. Chính quyền cho xe phát thanh đi khắp thành phố,
báo tin "một thanh niên thất tình chán đời tự tử tại
đài chiến sĩ". Các lực lượng cảnh sát không giải tán
được quần chúng. Mãi cho đến nữa đêm, theo lời yêu cầu
của thiền sư Quang Thế, Minh Thuần và Ấn Tâm, đồng bào
mới chịu ra về. Các vị tăng ni và thanh thiếu niên phật
tử trong bệnh viện nhất định không rời bệnh viện, sơ
chính quyền chuyển thi hài của thiền sư. Một số tăng ni
và phật tử khác cũng nhất quyết ngồi ngoài bệnh viện.
Suốt đêm họ luân phiên tụng kinh cầu nguyện.
Tại
chùa Tỉnh Hội, quần chúng cũng đã tập đông đảo. Loa phát
thanh được bắt lên cột cờ sân chùa và thiền sư Châu Đức
đứng ra trình bày về sự tình đã xẩy ra, cải chính những
điều mà xe phát thanh của chính quyền đã rao nói trong thành
phố. Ông cho đồng bào biết là "đại đức Nguyên Hương,
một vị tăng sĩ của Giáo Hội Tăng Già Bình Thuận vừa tự
thiêu để phản đối chính quyền về việc không chịu thực
tâm thi hành Thông Cáo Chung".
Các lực lượng
cảnh sát liền tới bao quanh chùa Tỉnh Hội. Sáng ngày 5.8.1963,
cảnh sát và dân vệ kéo tới đàn áp, bắt các tăng ni nhốt
vào trong phòng danh cho người điên ở bệnh viện và chở
thi hài của thiền sư Nguyên Hương đi mất.
Tại Sài Gòn, tin thiền sư Nguyên Hương tự thiêu đến tại Ủy Ban Liên Phái ngày 5.8.1963. Lễ cầu siêu cho thiền sư được dự định tổ chức vào ngày 11.8.1963, trên toàn quốc. Tại chùa Xá Lợi ngày hôm đó, lễ cầu siêu được Đoàn Sinh Viên Phật Tử, Đoàn Thanh Niên Bảo Vệ Phật Giáo và Liên Đoàn Học Sinh Phật Tử điều động và tổ chức. Số người tham dự lên tới hai chục ngàn người. Tại lễ cầu siêu này, số lượng tăng ni rất đông đảo. Các tăng sĩ gốc Miên có mặt từng đoàn, cũng mặc pháp phục như họ là các tăng sĩ Nam Tông gốc Việt. Tăng sinh và ni sinh của tất cả các Phật học viện miền Sài Gòn, Gia Định và Thủ Đức đều có mặt. Thiền sư Tịnh Khiết đứng ra làm chủ lễ. Lễ Cầu Siêu cử hành xong, chúc thư của thiền sư Nguyên Hương được đem ra tuyên đọc. Trong quần chúng, một rừng biểu ngữ được dựng lên. Trong các biểu ngữ này, có một biểu ngữ nội dung thật đặc biệt: "Tổng thống Ngô Đình Diệm hãy nắm vững trách nhiệm, đừng để ai lũng đoạn quyền hành, vu khống, đàn áp Phật giáo". Thiền sư Giác Đức đứng trước máy vi âm giải thích về biểu ngữ này. Ông nói đến áp lực nặng nề của các ông Ngô Đình Nhu, Ngô Đình Cẩn và bà Trần Thị Lệ Xuân đối với tổng thống Ngô Đình Diệm. Ông nhấn mạnh đến sự lộng quyền của ông Ngô Đình Nhu và bà Ngô Đình Nhu, phân tích những âm mưu phá hoại tổ chức Phật giáo và những sự cố tình vi phạm bản Thông Cáo Chung. Quần chúng hoan hô từng chập. Cũng vào ngày 5.8.1963 thiền sư Tịnh Khiết gửi một lá thư cho ông Ngô Đình Diệm, lưu ý tổng thống về tin đồn liên hệ tới một cuộc đảo chính giả hiệu có mục đích ép ông phải tức khắc đàn áp Phật giáo.
Ngày
6.8.1963, Ủy Ban Liên Phái lại được mật báo về một kế
hoạch của chính quyền nhằm tiêu diệt phong trào Phật giáo,
gọi là "kế hoạch nước lũ". Kế hoạch này nhằm phân
hóa và cô lập lực lượng phật tử, bao vây kinh tế, chặn
đứng tất cả guồng máy thông tin của họ và nhất là bôi
xấu từng vị lãnh đạo của phong trào bằng cách giả tạo
những "bằng cớ hợp pháp" của họ để có thể truy tố
họ trước pháp luật(190).
Trong lá thư gửi cho tổng thống Diệm ngày 7.8.1963, thiền
sư Tịnh Khiết báo tin cho tổng thống về kế hoạch này,
đồng thời lưu ý ông một lần nữa về những âm mưu thâm
độc của những người thân tín nhất bên ông.
Ngày
12.8.1963 một nữ sinh Mai Tuyết An đến chùa Xá Lợi chặt
bàn tay trái của cô để cảnh cáo chính quyền, cô chặt nhiều
lát nhưng bàn tay của cô không đứt.máu loang đầy áo cô.
Các vị tăng sĩ nghe tin chạy tới, tìm xe chở cô vô bệnh
viện. Trước khi chặt tay, cô nữ sinh này đã viết ba bức
thư, một cho tăng ni Phật giáo đồ, một cho tổng thống Diệm
và một cho bà Ngô Đình Nhu.
Ngày
13.8.1963, một cây đuốc người nữa được thắp lên ở chùa
Phước Duyên ở quận Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên. Người
tự thiêu là một học tăng 18 tuổi, tên là Thanh Tuệ.
Thiền
sư Thanh Tuệ tên đời là Bùi Huy Chương sinh năm 1945 tại
Quảng Trị. Ông xuất gia năm 1960, theo học với thiền sư
Đảnh Lễ tại chùa Phước Duyên. Đêm 12.8.1963 ông viết bốn
bức thư để lại, một cho tổng thống Diệm, một cho tăng
tín đồ Phật giáo, một cho thầy ông và bổn đạo, và một
cho gia đình. Thư của ông viết rất gọn gàng và vắn tắt.
Trong thư viết cho tổng thống Diệm ông yêu cầu chấm dứt
việc khủng bố và áp bức phật tử và phóng thích hết những
người bị giam giữ. Ông lại nói rằng chính sự nhục mạ
và càn rỡ của bà Nhu sẽ làm cho chính quyền sụp đổ và
đưa Phật giáo đồ đến thành công. Hai giờ khuya ngày 13.8.1963,
tại ngôi chùa Phước Duyên hẻo lánh, trong lúc thầy ông đi
vắng, ông ra ngồi ngoài Tam Quan chùa và chấm lửa tự thiêu.
Khi nhân viên công lực hay tin thì quần chúng trong xã đã tới
bao quanh cổng chùa khóc lóc. Cảnh sát không cho phép đưa di
thể người học tăng trẻ tuổi về chùa Từ Đàm. Việc xô
xát diễn ra và trong một cuộc đàn áp 25 người trong làng
đã bị thương, trong số đó có 5 người phải chở đi bệnh
viện. Cảnh sát chở thi hài thiền sư Thanh Huệ đi mất.
Ngày
13.8.1963, Ủy Ban Liên Bộ của chính quyền mở cuộc họp báo
tại Hội trường Diên Hồng, đổ trách nhiệm cho Ủy Ban Liên
Phái đã không cộng tác để thành lập Ủy Ban Hổn Hợp trong
mục đích thi hành Thông Cáo Chung. Ngày hôm sau, Ủy Ban
Liên Phái mở cuộc họp báo tại chùa Xá Lợi, và trước
mặt giới báo chí quốc nội và quốc tế, thiền sư Thiện
Minh đã giải thích những lý do khiến Ủy Ban Liên Phái chưa
chịu tham dự thành lập Ủy Ban Hổn Hợp. Thiền sư nói rằng
sở
dĩ Thông Cáo Chung không được thi hành là chỉ tại
vì chính quyền không chịu thi hành. Theo ông, Thông Cáo Chung
chỉ
là một biện pháp của chính quyền để dẹp bỏ ngày tang
lễ của thiền sư Quảng Đức. Không có một điều khoản
nào ghi trong Thông Cáo Chung đã được thi hành. Ông cho
biết báo chí tại quốc nội, kể cả tờ The Times of Vietnam,
chỉ được quyền đăng tải quan điểm của chính quyền và
sự thực luôn luôn bị chính quyền bít lấp. Ông kêu gọi
ngừng phong tỏa các chùa, phóng thích tất cả những người
bị bắt giữ và chấm dứt mọi hành động đàn áp, khủng
bố, phỉ báng xuyên tạc. Đồng thời ông cũng cho biết tin
đại lão thiền sư Tịnh Khiết kêu gọi chư tăng ni và tín
đồ ngưng hành động tự thiêu.
Tại
Huế ngày 15.8.1963, khoảng một ngàn sinh viên và học sinh tổ
chức biểu tình tại thành phố để phản đối vụ đàn áp
trước chùa Phước Duyên và buộc chính quyền trả lại di
thể thiền sư Thanh Tuệ về chùa. Cũng hồi tám giờ rưỡi
ngày hôm đó, một ni sư tẩm dầu xăng và châm lửa tại quận
Ninh Hòa gần thị xã Nha Trang.
Ni
sư Diệu Quang tên đời là Ngô Thị Thu, sinh năm 1936 tại làng
Phù Cát tỉnh Thừa Thiên. Ni sư xuất gia hồi 21 tuổi, theo
học với ni sư Diệu Hoa tại ni viện Vạn Thạnh Nha Trang.
Tất cả những di bút của cô để lại cũng như thi hài của
ni sư Diệu Quang lập tức bị cảnh sát mang đi biệt tích.
Không ai biết được nội dung của những bức thư ni sư để
lại. Phẩn uất về thái độ của giới công quyền, một
cuộc biểu tình tuần hành rất lớn được tổ chức ngay
tại thị xã Nha Trang để phản đối. Cuộc biểu tình này
bị đàn áp rất dã man. Hơn 200 người bị bắt giữ và gần
30 người bị đả thương. Chùa Hội Quán và Phật học viện
Hải Đức bị phong tỏa và điện nước bị cắt suốt trong
ba ngày đêm. Khoảng 300 tăng sĩ và cư sĩ thân cận chư tăng
bị cô lập trong hai địa điểm đó.
Vì
có nhiều người bị thương trong chùa và vì thuốc men và
phương tiện chạy chữa khác không có nên một số tăng đồ
và tín đồ liều phá vòng vây quanh chùa để chạy ra ngoài
cầu cứu sau ba ngày bị phong tỏa. Họ bị đàn áp dữ dội.
Bốn vị tăng, một vị ni và ba vị cư sĩ bị trọng thương.
Hai vị tăng sĩ khác bị liệng xuống hồ. Rất đông thanh
thiếu niên bị bắt.
Ngày
16.8.1963 tại Huế, tất cả mọi chợ búa trường học, xí
nghiệp và công tư sở đều nhất loạt tổng đình công theo
lời kêu gọi của giới lãnh đạo Phật giáo. Chính quyền
thị xã ban hành lệnh giới nghiêm và thiết quân luật toàn
diện. Tất cả các chùa lớn đều bị phong tỏa, hàng ngàn
người bị cô lập trong các chùa Linh Quang, Từ Đàm và Diệu
Đế.
Ngày
hôm đó, để cứu nguy, thiền sư Tiêu Diêu châm lửa tự thiêu
ngay tại chùa Từ Đàm, để lại ba bức thư, một cho thiền
sư Tịnh Khiết, một cho các đệ tử của ông và một cho
tổng thống Diệm.
Thiền
sư Tiêu Diêu đã bảy mươi mốt tuổi. Ông sinh năm 1982 tại
làng An Truyền quận Phú Vang tỉnh Thừa Thiên. Ông xuất gia
lức ba mươi tám tuổi, theo học với thiền sư Tịnh Khiết
ở chùa Tường Vân. Ông thọ đại giới năm 1952 và sau đó
dựng một tịnh thất tại chùa Châu Lâm để tĩnh tu. Ông
từng được học Phật tại các chùa Tây Thiên và Linh Quang.
Ông tự thiêu vào lúc bốn giờ sáng ngày 16.8.1963.
Sợ
chính quyền đến cướp nhục thể của thiền sư như những
lần trước, gần năm ngàn người đã túc trực ngày đêm
tại chùa Từ Đàm để bảo vệ và sẵn sàng ngăn chặn cảnh
sát.
Cùng
ngày hôm ấy, Ủy Ban Liên Phái tịa chùa Xá Lợi sau khi được
tin, đã gửi thông bạch tố cáo sự tàn nhẫn của chế độ
trước dư luận quốc dân và thế giới. Lá thư của thiền
sư Tịnh Khiết gửi tổng thống Diệm chiều hôm ấy nói đến
sự ngược đãi của chính quyền đối với người phật tử
"một sự ngược đãi chưa từng có trên đất nước này".
Ông viết: "Chúng tôi đã đến nước không còn nghĩ đến
sự kêu cầu nhân đạo và công lý; chúng tôi chỉ mong bao
nhiêu tội ác của một chế độ xem dân như cỏ rác được
thực hiện ngay để chúng tôi có dip chết an hơn là sống
khổ và cũng để cho chân tướng nền Cộng Hòa Nhận Vị
do nhà Chí Sĩ xây dựng được phơi bày trước mắt đồng
bào và thế giới"(191)
Tại
Huế, linh mục Cao Văn Luận, viện trưởng Đại Học Huế
bị bãi chức vì ông đã nói thẳng vào mặt những người
cầm đầu chính phủ: "Các ông vô đạo. Bên Phật giáo có
chính nghĩa".
Các
giới chức Viện Đại Học Huế trong đó có ông Lê Khắc
Quyến (khoa trưởng Y Khoa), Bùi Tường Luân (Khoa trưởng Luật
Khoa), Tôn Thất Hạnh (Khoa trưởng Khoa Học), Nguyễn Văn Tường
(Giám đốc Học Vụ Đại Học Sư Phạm), Lê Tuyên (Giám đốc
Học Vụ Văn Khoa) và ba mươi nhân viên giảng huấn của trường
đại học này ra thông cáo từ chức. Đồng thời toàn thể
giảng viên Viện Hán Học Huế cũng ra tuyên cáo phản đối
chính quyền và tuyên bố từ bỏ chức vụ.
Các
giới đều đã có mặt trong cuộc tranh đấu. Sự bất hợp
tác trở nên toàn diện tại Huế, phong trào bất hơp tác bắt
đầu chuyển sang Sài Gòn và các tỉnh.
Tại
Huế, mọi guồng máy xã hội đều tê liệt. Ngoài lực lượng
cảnh sát, lực lượng đặc biệt, công an và mật vụ, không
còn ai theo lệnh chính quyền nữa. Chính quyền lầm vào một
tình trạng nguy ngập đến nỗi phải chyên chở từ Sài Gòn
ra Huế trước ngày 16.8.1963 nhiều đơn vị cảnh sát chiến
đấu và lực lượng đặc biệt. Trên đường không còn một
ai qua lại.
Tại
Sài Gòn ngày 16.8.1963, Ủy Ban Liên Phái gửi một bức điện
tín cấp báo cho tổng thư ký Liên Hiệp quốc và cho các tổ
chức Phật giáo bạn như Thái Lan, Nhật Bản, Đại Hàn, Tân
Gia Ba, Tích Lan, Miến Điện, Đài Loan và Ấn Độ. Điện tín
nói đến tình trạng bi thiết của Phật giáo Việt Nam và
kêu gọi cấp cứu: "Chúng tôi gửi đến Thế Giới Tự
Do, các tổ chức Phật giáo ngoại quốc lời kêu cứu thiết
tha này và thầnh thật tri ân mọi sự can thiệp, nhân danh
nhân quyền, để chấm dứt một sự ngược đãi đã trở
thành dã man".
Trong khi đó quân
đội Cộng Hòa được lệnh cắm trại 100%. Đường phố đầy
cảnh sát võ trang. Dây thép gai từng đống lớn chất trên
vĩa hè xung quanh các chùa.
Ngày
17.8.1963, lệnh tập họp để cầu siêu cho tất cả những
thiền sư đã thiêu thân vì bảo vệ Phật giáo được Ủy
Ban Liên Phái truyền ra. Trên ba mươi ngàn người đã đến
chùa Xá Lợi vào sáng ngày 18.8.1963. Sau bài diễn văn đã được
tuyên đọc. Đoàn Viên Sinh Viên Phật tử Sài Gòn kêu gọi
quần chúng tham dự một cuộc tuyệt thực tại chỗ. Khoảng
mười ngàn người hưởng ứng ngồi xuống. Chủ lực của
cuộc tuyệt thực này là thanh niên thuộc các đoàn thể Sinh
Viên Phật Tử, Học Sinh Phật Tử và Đoàn Thanh Niên Bảo
Vệ Phật Giáo. Rất nhiều đồng bào không tuyệt thực cũng
ở lại yểm trợ.
Suốt
ngày hôm ấy, quần chúng thủ đô thay nhau, hết lớp này đến
lớp khác, kéo đến chùa để ủng hộ cho cuộc tuyệt thực.
Cảnh Sát Chiến Đấu túc trực quanh vùng để đề phòng tuyệt
thực biến thành cuộc biểu tình diễn hành. Thiền sư Giác
Đức lại lên máy vi âm để đàm đạo với đại chúng.
Dùng
những lý luận sắc bén, ông diễn bày tính cách phi nhân của
chế độ. Ông lại lên án gắt gao bà Ngô Đình Nhu về những
lời nhục mạ Phật giáo của bà(192).
Sẵn thù ghét chế độ, quần chúng hoan hô ông từng chặp.
Ông lên diễn đàn nhiều lần trong một ngày và giữ cho cuộc
tuyệt thực luôn luôn linh động.
Từ
ngã tư các đường Bà Huyện Thanh Quan và Ngô Thời Nhiệm
đến đường Phan Thanh Giản, quần chúng đứng ngồi chật
ních. Thế đấu tranh của quần chúng càng lúc càng mãnh liệt.
Chính
quyền Ngô Đình Diệm không lùi bước. Ngày 21.8.1963 chính
quyền này đánh một đòn ác liệt cuối cùng: tất cả các
ngôi chùa làm căn cứ cho cuộc tranh đấu của phật tử trên
toàn quốc đều bị tấn công một lần và tất cả các vị
lãnh đạo của cuộc tranh đấu, tăng ni cũng như cư sĩ, đều
bị tống vào ngục tối.
Ủy
Ban Liên Phái Bảo Vệ Phật Giáo tại chùa Xá Lợi được
mật báo về cuộc đánh úp này vào lúc 5 giờ chiều ngày
20.8.1963. Một buổi họp thu hẹp của Ủy Ban Liên Phái được
tổ chức ngay sau đó để bàn định kế hoạch đối phó với
cuộc tấn công này mà các vị lãnh đạo Phật giáo cho là
lá bài chót của chế độ. Sau buổi lễ Phật vào tám giờ
rưỡi tối, các phật tử đến hành lễ tại chùa Xá Lợi
được yêu cầu ra về trước chín giờ thay vì ra về trước
mười một giờ như thường nhật. Vào khoảng mười giờ
đêm thì cảnh chùa đã trở lại yên tĩnh. Tam quan chùa và
các cửa hông đều được đóng lại kỹ lưỡng. Đèn ngoài
sân chùa được để sáng chứ không tắt như mọi hôm. Các
tiểu ban của Ủy Ban Liên Phái vẫn im lặng làm việc. Một
số thanh niên tăng ngồi canh gác sau các cổng chùa. Vào lúc
mười lăm phút sau nửa đêm, Ủy Ban Liên Phái nhận được
một tin nữa bằng điện thoại do một người không xưng danh
tin cho biết chùa Xá Lợi sắp bị tấn công và các vị lãnh
đạo Phật giáo sẽ bị bắt cóc. Tất cả tăng ni trong chùa
đều im lặng niệm Phật để chờ đợi. Đúng ba mươi phút
sau nữa đêm, một hồi còi ré lên phía ngoài và xe cảnh sát
đổ đến vây quanh chùa. Khoảng 200 người của Lực Lượng
Đặc Biệt ào tới tấn công chùa. Giây điện thoại và dây
đèn bị cắt đứt. Các vị lãnh đạo cao cấp của Phật
giáo lúc này đã rút lên chánh điện, bao bọc bởi chư tăng
ni. Một số thanh niên tăng trấn ở cầu thang để ngăn không
cho bọn người hung dữ tiến lên xâm phạm vào các bậc trưởng
thượng của họ. Những cuộc đập phá đã bắt đầu. Bàn
thờ thiền sư Quảng Đức bị lật đổ, các cánh cửa và
hương đài bị đập phá. Một số chư tăng đánh trống và
dộng chuông để báo hiệu nguy cấp cho dân cư trong khu phố.
Nhiều vị khác gõ vào bất cứ thứ gì có thể tạo nên âm
thanh để góp phần báo hiệu. Sau khi phá phách bên dưới xong
xuôi, những người tấn công bắt đầu leo lên thượng điện.
Tại đây, thanh niên tăng đã chất ghế và bàn đầy cầu
thang khiến họ không tiến lên ngay được. Những người tấn
công tung lựu đạn cay lên. Bị khói cay, các tăng ni ho sặc
sụa, nước mắt nước mũi chảy ròng ròng. Họ dùng khăn
ướt bịt mặt lại và tiếp tục liệng thêm bàn ghế xuống
để chặn đường cầu thang. Thanh niên tăng cầm cự được
khoảng gần một giờ rưỡi thì kiệt lực. Nhiều vị ngã
ra bất tỉnh. Lựu đạn cay ném lên chánh điện nhiều quá
khiến không còn không khí để thở. Áo quần họ cháy sém.
Những người tấn công đã lên tới chánh điện, dùng súng
và lưỡi lê dồn tất cả tăng ni vào một góc. Họ còng tay
từng người rồi dẫn ra trước sân thượng điện. Những
ai kháng cự đều bị đánh đập không nương tay. Những người
mệt mõi không đi nhanh đều bị họ tống báng súng vào lưng.
Nhiều tăng ni mặt mày bị dập, máu tuôn ướt áo.
Trong
khi đó, một số trong những người tấn công đi lùng soát
các phòng ốc khác trong chùa. Họ phá cửa một căn phòng khóa
kín trên tăng xá và tìm thấy gần mười vị thiền sư đang
tĩnh tọa. Đại lão thiền sư Tịnh Khiết có mặt trong số
người này. Ông bị những người tấn công xô ngã sấp và
bị một vết thương nơi mắt trái.
Trong
lúc cuộc đàn áp đang diễn ra trên thượng điện một số
tăng sĩ ở bên dưới tìm cách leo lên bức tường sau chùa
Xá Lợi để thoát ra bên ngoài. Bốn vị trong số đó bị
bắn rơi lại dưới chân tường. Hai vị trèo thoát được
sang địa phận của cơ quan USOM(193)
của Hoa Kỳ và xin tỵ nạn ở đây.
Ngót
hai trăm năm mươi vị tăng ni bị bắt. Những người tấn
công được lệnh áp giải các thiền sư Tịnh Khiết, Tâm
Châu, Thiện Minh, Quảng Độ, Giác Đức và các vị quan trọng
khác trong Ủy Ban Liên Phái đi trước. Các vị tăng ni khác
lần lượt áp giải ra xe. Năm chiếc xe cam nhông lớn chất
đầy các vị tăng ni, người thì bị thương, người còn bất
tỉnh, rời chùa Xá Lợi. Cuộc tấn công chùa chấm dứt vào
lúc 2 giờ 15’ sáng ngày 21.8.1963.
Chùa
Xá Lợi bị phá tang hoang. Tượng Phật Thích Ca tại Chánh
Điện cũng bị xâm phạm. Những người tấn công đã móc
mắt tượng Phật để chiếm lấy hai hạt kim cương trong hai
mắt tượng.
Trong khi chùa Xá Lợi ở Sài Gòn bị tấn công thì trong toàn lãnh thổ Việt Nam các chùa lớn làm căn cứ cho cuộc tranh đấu của Phật giáo cũng đều bị tấn công nhất loạt. Cuộc tấn công chùa Từ Đàm ở Huế gặp sức kháng cự của khoảng năm ngàn phật tử trong chùa, đã phải kéo dài từ một giờ khuya tới tám giờ sáng. Lực lượng tấn công là hai ngàn rưỡi, tất cả đều thuộc Lực Lượng Đặc Biệt. Các chùa Diệu Đế, Linh Quang, Ấn Quang, Giác Minh, Từ Quang, Báo Quốc và các chùa hội quán các tỉnh hội Phật giáo trong nước đều bị đánh úp cùng một ngày một giờ, khắp nơi, tăng sĩ vác đều bị đánh đập và bắt trói trước khi dẫn đi. Số lượng những vị tăng sĩ và cư sĩ toàn quốc bị bắt nhốt đêm đó, theo tài liệu của chính quyền là 1.400 vị, nhưng có thể cao hơn nhiều. Tài liệu mật của Ngũ Giác Đài(194) về cuộc chiến tại Việt Nam cũng nói đến 1.400 vị bị bắt trong đêm đó. Theo sách Công Cuộc Tranh Đấu Của Phật giáo Việt Nam của Đuốc Tuệ, ngoài số tăng ni và cư sĩ lãnh đạo cuộc tranh đấu bắt vào đêm 20.8.1963, chính quyền đã cho người đi bắt thêm khoản hai ngàn người khác tại tư gia của họ trong đêm đó và những ngày kế tiếp. Bác sĩ Lê Khắc Quyến, khoa trưởng Y Khoa Huế và thi sĩ Vũ Hoàng Chương tác giả bài Lửa Từ Bi cũng bị bắt giam trong dịp này. Trong số những người bị bắt sau này, có nhiều giáo sư, luật sư và sinh viên nhất là ở Sài Gòn và Huế. Tất cả các nhân viên của Ban Chấp Hành Đoàn Sinh Viên Phật Tử Sài Gòn và Huế cũng đều bị bắt tại tư gia của họ. Sáng tinh sương ngày 21.8.1963 trên toàn lãnh thổ Việt Nam Công Hòa, sắc lệnh thiết quân luật đã được dán đầy trên thành phố. Xe phóng thanh của chính quyền chạy khắp phố phường và thôn xã để loan tin "chính phủ đã diệt xong bọn phản động". Truyền đơn và hiệu triệu của chính quyền bay đầy đường. Các chùa
chiền trong toàn quốc hoang tàn và vắng lạnh đến não nùng.
Một sự im lặng nặng nề và tang tóc bao trùm lên đời sống
của toàn dân chúng. Tất cả các vị lãnh đạo Phật giáo
đều đã bị bắt. Sóng gió do phong trào phật tử gây ra hình
như không còn nữa. Nhưng sóng gió bắt đầu nổi dậy trong
lòng mọi người. Những đợt sóng ngầm vĩ đại trong lòng
đại dương không còn ai ngăn chặn và không có cách nào ngăn
chặn được nữa. Đêm 20.8.1963 chính quyền của tổng thống
Diệm đã chọn cho chính mình một tuyệt lộ.
(183)Sách
Phật
Giáo Đấu Tranh do Quốc Oai biên soạn (Tấn Sanh, 1963) có
in danh sách 21 vị tăn ni bị cảnh sát đã thương trầm trọng
ngày 17.7.1963. Theo Quốc Oai, tất cả các vị tăng ni trong cuộc
biểu tình ngày 17.7.1963 đều bị đánh đập, không nhiều
thì ít. Cảnh sát xé nát áo nhiều người. Có vị bị thương
máu me đầy người.
(184)Bản
kê khai một số hành động vi phạm Thông Cáo Chung Công
Cuộc Tranh Đấu Của Phật Giáo Việt Nam. Quốc Tuệ, trang
276-278.
(187)Một
tháng sau, trung tá Trần Thanh Chiêu được công khai tuyên dương
công trạng và được gắn Trung Dũng Bội Tinh (Công Cuộc
Tranh Đấu Của Phật Giáo Việt Nam. Quốc Tuệ, trang 231).
(192)Bà
Ngô Đình Nhu đã từng gọi hành động tự thiêu của các
thiền sư là "nướng chả" và đã từng tuyên bố công
khai với báo chí trong nước và ngoại quốc là các vị tăng
càng tự thiêu càng nhiều thì bà càng vỗ tay hoan hô.
|