|
CHƯƠNG XXXV CON ĐƯỜNG THỐNG NHẤT
Ngày
6.5.1951, năm mươi mốt đại biểu của sáu tập đoàn Phật
giáo Nam, Trung và Bắc họp hội nghị tại chùa Từ Đàm Huế
đã đồng thanh quyết nghị thành lập Tổng Hội Phật Giáo
Việt Nam. Bản Tuyên Ngôn sau đây đã được phổ biến.
"Bánh
xe Phật pháp xoay vần trên khắp quốc độ Việt Nam đến
nay đã gần hai mươi thế kỷ. Nhân tâm, phong tục, văn hóa,
chánh trị trong nước đều đã chịu ảnh hưởng rất sâu
xa của Phật giáo. Tăng đồ và thiện tín từ Bắc vào Nam,
một lòng quy ngưỡng Đức Điều Ngự Thích Ca Mâu ni, sống
trong tinh thần từ bi hỷ xả và luôn luôn lo toan xây dựng
hòa bình. Nhưng sự đời không hòa nhịp với lòng mong mỏi;
hoàn cảnh trước đây đã chia ranh giới ba phần nên phật
sự cũng phải tùy duyên mặc dầu Phật pháp vẫn bất biến.
Sự tướng mỗi phần mỗi khác, làm cho mặt bàng quan xem như
có điều chia rẽ. Nay cơ duyên thuận tiện, Phật giáo Việt
Nam phải được thống nhất. Hơn nữa, họa chiến tranh đang
gieo rắc khắp nơi, nhân loại đương lâm vào cảnh lầm than
phiền não. Chính là lúc Đạo Từ Bi và Vô Thượng phải đem
nước Cam Lộ mà rưới tắt lửa sân si để xây dựng cảnh
hòa bình cho nhân loại.
"Theo
lời hiệu triệu của các vị trưởng lão hòa thượng, một
Hội Nghị Phật Giáo Toàn Quốc gồm 51 vị đại biểu Phật
giáo ba phần đã được long trọng khai mạc vào ngày mồng
một tháng Tư năm 2495 Phật lịch, tức là ngày mồng 6 tháng
5 năm 1951 dương lịch tại ngôi chùa lịch sử Từ Đàm (Thuận
Hóa).
"Sau
bốn ngày thảo luận ráo riết tron bầu không khí thân mật
và hiểu biết, toàn thể hội nghị đã quyết định Thống
Nhất Phật Giáo Toàn Quốc Việt Nam, lấy ngày Phật Đản
làm ngày kỷ niệm thành lập TỔNG HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM,
và bầu một ban QUẢN TRỊ TRUNG ƯƠNG đặt trụ sở tại Thuận
Hóa (Huế) để thực hiện nhanh chóng chương trình thống nhất
mà Hội Nghị đã dự thảo.
"Hỡi
toàn thể phật tử Việt Nam! Chúng ta hãy san phẳng những
hình thức sai biệt, cùng chung sức chung lòng để làm tròn
sứ mệnh kiến tạo hòa bình, gây mầm an lạc, và nêu cao
ngọn đuốc Trí Tuệ của Đức Thế Tôn.
Sự
thành lập Tổng Hội Phật giáo Việt Nam đáp ứng được
nguyện vọng của tín đồ Phật giáo đã từng ao ước từ
hai mươi năm trước đó một nền Phật Giáo Việt Nam Thống
Nhất. Niềm vui của quần chúng phật tử khi nghe tin này đã
biểu lộ khắp toàn quốc và bài hát "Phật Giáo Thống Nhất"
của nhạc sĩ Lê Cao Phan trong ban Hướng Dẫn Gia Đình Phật
Tử đã nói lên được nỗi vui mừng ấy của tuổi trẻ.
"Phật
giáo Việt Nam thống nhất Bắc Trung Nam từ đây, một lòng
chúng ta đứng lên vì đạo thiêng. Nào cùng vui trong ánh đạo
vàng rạng ngời bốn phương, vang ca đón chào Phật giáo Việt
Nam…".
Lãnh đạo các tập đoàn miền Bắc tại đại hội 1951 là thiền sư Mật Ứng; phát ngôn viên là thiền sư Trí Hải. Đứng đầu các tập đoàn miền Nam là thiền sư Đạt Thanh, phát ngôn viên là thiền sư Thiện Hòa. Phái đoàn miền Trung do thiền sư Tịnh Khiết lãnh đạo và thiền sư Trí Quang làm phát ngôn viên. Đại hội đã suy cử thiền sư Tịnh Khiết làm hội chủ Tổng Hội, thiền sư Trí Hải làm phó hội chủ và bầu một ban quản trị gồm các nhân vật lãnh đạo Phật giáo trong ba phần, trong đó có một ủy viên Nghi Lễ, một ủy viên Hoằng Pháp, một ủy viên Văn Hóa, một ủy viên Giáo Dục. Đại hội kỳ II của Tổng Hội Phật Giáo Việt Nam được triệu tập tại chùa Phước Hòa, Sài Gòn ngày 1.4.1956, hai năm sau khi đất nước bị hiệp định Genève chia hai. Hồi này những tăng sĩ và cư sĩ di cư vào Nam đã thiết lập Giáo Hội Tăng Già Bắc Việt tại miền Nam. Sự thành lập các đoàn thể này là để giới phật tử di cư được sống với những hình thức nghi lễ và hành đạo quen thuộc từ miền Bắc. Vì lý do đó, tại đại hội năm 1956, cũng có mặt sáu tập đoàn. Đại hội năm 1956 khai mặc tại chùa Phước Hòa nhưng họp liên tiếp năm ngày tại chùa Ấn Quang, trụ sở của Giáo Hội Tăng Già Nam Việt. Đại hội suy tôn thiền sư Tịnh Khiết làm hội chủ, bầu thiền sư Huệ Quang và cư sĩ Chơn An Lê Văn Định làm phó hội chủ, cư sĩ Chánh Trí Mai Thọ Truyền làm tổng thư ký và đặt trụ sở tại chùa Ấn Quang. Thiền sư Thiện Hòa được bầu làm ủy viên Hoằng Pháp, thiền sư Tâm Châu ủy viên Nghi Lễ, thiền sư Trí Thủ ủy viên giáo dục. Tạp chí Phật Giáo Việt Nam, cơ quan chính thức của Tổng Hội ra đời nhằm ngày rằm tháng Tám năm Bính thân (1956), do thiền sư Huệ Quang đứng làm chủ nhiệm và thiền sư Nhất Hạnh chủ bút. Tuy nói thống nhất nhưng sáu tập đoàn của Tổng Hội vẫn sinh hoạt như cũ, và Tổng Hội chỉ đóng vai trò đối ngoại các tổ chức Phật Giáo trên thế giới hơn là đóng vai trò lãnh đạo trực tiếp các tập đoàn. Các tập đoàn cũng có khi hoạt động nhân danh tổng hôi và hồi hướng công đức về cho tổng hội nhưng tựu trung thực quyền lãnh đạo vẫn nằm ở các tập đoàn. Các Phật sự lớn như việc mở Đại Giới Đàn Hải Đức và lập Phật Học Viện ở Nha Trang, hay tổ chức diễn hành rước Xá Lợi Phật và xây chùa Xá Lợi tại Sài Gòn đều do các tập đoàn tổ chức nhân danh Tổng Hội. Gia Đình Phật Tử là ngành duy nhất đã đạt tới sự thống nhất thật sự về mặt tổ chức trong khi các sinh hoạt hoằng pháp, giáo dục, kiến thiết, nghi lễ, văn hóa v.v… vẫn không vượt ra khỏi phạm vi các tập đoàn.
Những
thành phần cấp tiến trong Phật giáo bắt đầu tỏ bày sự
nóng ruột của họ và chủ trương rằng chỉ khi nào thống
nhất thật sự thì Phật giáo Việt Nam mới đủ sức mạnh
để đóng góp vào nền hòa bình và hòa giải dân tộc. Từ
1951, các tổ chức tăng sĩ toàn quốc đã được thống nhất
dưới danh hiệu Giáo Hội Tăng Già Toàn Quốc với thiền sư
Tuệ Tạng ở ngôi vị thượng thủ. Năm 1959, đại hội kỳ
II của Giáo Hội Tăng Già Toàn Quốc họp tại chùa Ấn Quang
đã suy tôn thiền sư Khánh Anh lên kế vị. Như vậy, đứng
về phương diện tăng sĩ, vấn đề thống nhất không cấp
bách bằng đứng về phương diện cư sĩ. Do đó, áp lực quần
chúng bắt đầu đè nặng trên hai tổ chức cư sĩ quan trọng
nhất trong nước hồi đó: hội Phật Học Việt Nam ở Trung
Việt và hội Phật Học Nam Việt.
Tạp
chí Phật Giáo Việt Nam, cơ quan của Tổng Hội, đã
phản ánh ý chí thống nhất của quần chúng phật tử về
Tổng Hội, và đã liên tục tạo áp lực trên các tập đoàn
về vấn đề thống nhất.
Lời
kêu gọi của tạp chí Phật Giáo Việt Nam là một lời
kêu gọi trực tiếp:
"Hỡi
các nhà lãnh đạo các tập đoàn Phật giáo trong Tổng Hội
và ngoài Tổng Hội! Quần chúng phật tử đang nhìn vào liệt
vị. Phật tử Việt Nam ước ao thống nhất và đại đoàn
kết trong tinh thần lục hòa xây dựng. Liệt vị đừng đi
trái nguyện vọng của phật tử chúng tôi! Trách nhiệm nặng
nề một phần lớn là ở nơi liệt vị. Công hay tội là do
ở chúng ta có sáng suốt và thành thức trong sự xây dựng
thống nhất hay không? Các vị hãy sáng suốt để tránh khỏi
những cạm bẫy và những mưu môchia rẽ của Ma Vương Ngoại
Đạo đang muốn hủy diệt chính pháp, đang muốn cản ngăn
nền Phật giáo thống nhất. Hàng triệu con mắt đang đổ
dồn về liệt vị. Hãy tỏ ra xứng đáng và những nhà lãnh
đạo sáng suốt để khỏi phụ lòng mong mõi của chúng tôi"(122).
Kêu
gọi chưa đủ, Phật Giáo Việt Nam trực tiếp tấn công
những người được xem như tham quyền cố vị trong các tập
đoàn và gọi là những "ngã kiến":
"Trong
lúc Phật Giáo Việt Nam còn đang lo thực hiện thống nhất
toàn vẹn thì những ngã tướng kia không ai chịu thua ai, không
ai chịu nhường ai… Mâu thuẩn nội dung do ngã tướng, khó
khăn đối ngoại cũng do ngã tướng. Bao nhiêu chương trình
tốt đẹp chưa thực hiện, bao nhiêu hoạt động hiện tại
bị ngưng trệ, chỉ vì người ta không chịu rời bỏ ngã
tướng mà thôi(123).
Cuộc
vận động của tạp chí Phật Giáo Việt Nam không đưa
tới kết quả mong ước. Đại Hội Phật Giáo Toàn Quốc thứ
ba họp tại Sài Gòn ngày 17.8.1957 đã không xóa bỏ được
bản vị của các tập đoàn. Đại Hội chỉ yêu cầu các
ủy viên Giáo Dục, Văn Hóa, Thanh Niên và Kiến Thiết tổ
chức các đại hội chuyên môn để nghiên cứu phương pháp
thống nhất lề lối sinh h oạt chuyên môn của mình. Ban Quản
trị Trung Ương của Tổng Hội vẫn không đạt tới thực
quyền lãnh đạo.
Không
nản lòng, năm 1959, tạp chí Phật Giáo Việt Nam đã
mở một cuộc vận động mới. Sau khi phân tích tình trạng,
tạp chí này chủ trương rằng những trở ngại của sự thống
nhất không phải đến từ bên ngoài mà là do ở sự thiếu
thiện chí của một số người lãnh đạo ở cấp bực tập
đoàn.
"Quần chúng phật tử đã nồng nhiệt với phong trào thống nhất, đã khát khao thống nhất, đã đòi hỏi thống nhất! Thế thì tại sao thống nhất Phật giáo lại chưa thành? Sự chậm chạp chần chờ trong bảy năm qua chỉ có thể quy vào sự thiếu thiện chí, thiếu cố gắng xây dựng, thiếu tinh thần khoan dung quảng đại của một số người - chúng tôi nói một số ít thôi - trong các cấp điều khiển của các tập đoàn. Họ đã đặt ý kiến riêng của họ lên ý kiến chung, cam lòng để cho công cuộc thống nhất bị đình trệ hơn là thấy thiển kiến của mình không được dung nạp"(124). Trong các bài xã thuyết Làm Thế Nào Để Giữ Vững Tín Tâm Của Phật Tử(125), tạp chí Phật Giáo Việt Nam cảnh cáo rằng thái độ thờ ơ của giới lãnh đạo các tập đoàn với nền thống nhất có thể làm cho quần chúng phật tử mất hết lòng tin, và do đó Phật giáo có thể mất đi cơ hội ngàn năm một thuở để đóng vai trò thực hiện hòa bình cho dân tộc. Nhận định về sự im lặng và thờ ơ này, báo Phật Giáo Việt Nam đã đặt câu hỏi với các ủy viên trong ban Quản Trị Trung Ương của Tổng Hội và các cấp trị sự của các tập đoàn: "Chúng tôi biết công việc không phải dễ dàng, cần có tài, có đức, có thiện chí, có người, có tài chính. Nhưng tại sao công việc khó khăn như thế mà quý vị vẫn giữ một mực im lặng, không lên tiếng tỏ bày những thắc mắc, không trưng cầu ý kiến, không kêu gọi thiện chí trên báo chương, không triệu tập những hội nghị riêng biệt từng ngành chuyên môn như Tổng Hội đã quyết định để gom góp ý kiến, trao đổi quan điểm, kêu gọi sự tham gia của những người có khả năng, có chuyên môn, có sáng kiến, có đạo tâm? "Nếu quý ngài là những người chủ chốt trong công cuộc chấn hưng Phật giáo nước nhà mà cứ điềm nhiên "tự tại" mãi như thế này, thì toàn thể phật tử còn biết trông cậy vào ai nữa, và phỏng họ có đủ tín tâm để chờ đợi quý ngài hoàn thành nhiệm vụ không?(126). Trên tạp chí Phật Giáo Việt Nam có nhiều cây bút viết về vấn đề thống nhất: Minh Hạnh, Chơn An, Kao Tâm Nguyên, Trọng Dức và Thiều Chi. Từ số 25 trở đi, Phật Giáo Việt Nam trình hày một loạt bài của Trọng Đức phân tích tình trạng và đưa ra những kiến nghị cụ thể về vấn đề thống nhất. Loạt bài này là nỗ lực cuối cùng của Phật Giáo Việt Nam trước khi tạp chí này bị đình bản vào giữa năm 1959. Trọng Đức nêu ra những thiệt hại và tệ đoan mà Phật giáo nước nhà phải gánh chịu trong tình trạng Phật giáo không thống nhất: 1) lực lượng tinh thần bị chi phối; 2) lực lượng vật chất bị tản mát; 3) những công cuộc thực hiện không thể to tát và hoàn bị; 4) khối phật tử thiếu người đại diện ở cấp toàn quốc; 5) sự mất tin tưởng của tín đồ đối với cấp lãnh đạo; 6) tự ti mặc cảm của tín đồ; 7) tinh thần tương thân tương trợ dần dần bị bế tắc; và 8) cấp lãnh đạo không có dịp để học hỏi sự điều khiển trong phạm vi rộng lớn hơn. Rồi tác giả nhấn mạnh rằng: "Không tiến tức là lùi, dừng lại tức là bắt đầu nằm xuống"(127), tác giả nhận định rằng sự thống nhất đòi hỏi nhiều can đảm: "Không có một sự thay đổi nào mà không xáo trộn cuộc đời bình thường an ổn hàng ngày, không có một cuộc mổ xẻ ung nhọt nào mà không làm cho người bị mổ xẻ bị đau đớn… không có một cuộc cải cách tiến bộ nào hay cuộc cách mạng nào không gây ít nhiều đổ vỡ."(128). Rồi tác giả đề nghị việc triệu tập một hội nghị toàn quốc với mục đích xóa bỏ các tập đoàn và bầu lên một ban Quản Trị Trung Ương hùng hậu, gồm các nhân vật xuất sắc nhất và có thiện chí nhất trong các tập đoàn. Đề nghị xóa bỏ các tập đoàn không phải là một đề nghị mới. Ngay từ 1951, Đại Hội Phật Giáo Toàn Quốc tại chùa Từ Đàm đã đồng ý trên nguyên tắc về đề nghị này. Bản quyết nghị năm 1951 đã nói đến sự: "xóa bỏ bản vị các tập đoàn để thành lập một Tổng Hội Phật Giáo Việt Nam". Nếu chín năm sau mà chưa xóa bỏ được hình thức tập đoàn thì quả thực là đã có sự "dừng lại và thụt lùi" như Trọng Đức nói. Quần chúng lúc đó đã nhìn vào các hội Phật Học Nam Việt (Nam) và Việt Nam Phật Học (Trung) là những lực lượng hùng hậu nhất của Phật giáo thời ấy và trách cứ thiền sư Trí Quang cùng cư sĩ Mai Thọ Tgruyền về việc trì trệ của nền Thống Nhất (129) Những loạt bài vận động của tạp chí Phật Giáo Việt Nam tuy đã gây được ý thức sâu xa trong quần chúng về nhu yếu thống nhất, nhưng không mang không mang lại kết quả nào cụ thể ngay hồi đó. Những loạt bài này dã làm cho cấp lãnh đạo các tập đoàn bực tức và do đó ờ báo đã phải đóng cửa vào giữa năm 1959 vì thiếu sự ủng hộ tài chính.
Đứng
về phương diện vận động thống nhất, có thể là tạp
chí Phật Giáo Việt Nam không đạt được những thành
quả mong ước, nhưng đứng về phương diện gây ý thức về
một nền Phật giáo dân tộc để làm cơ sở cho hòa bình
thì tạp chí này đã đi được nhiều bước lớn. Ngay từ
số đầu, Phật Giáo Việt Nam đã nhấn mạnh đến vai
trò xây dựng một nền văn hóa quốc gia độc lập của Phật
giáo Việt Nam trong quá khứ, và kêu gọi phật tử "sát cánh
bên nhau bồi đắp cho nền Phật giáo dân tộc để có thể
đưa nước nhà tới an lạc thái bình(130).
Cũng
ngay từ số đầu. Phật Giáo Việt Nam đã vạch ra con
đường độc lập của Phật giáo, con đường gọi là "nhân
bản đích thực", một con đường không nhấn mạnh tới
sự giác ngộ quyền lợi và nhấn mạnh đến sự
giác ngộ bản tính, một con đường trong đó con người
tin vằonng lực của chính mình mà không dựa vào những thế
lực ngoài con người. Đó là con đường Trung đạo, không
đi lệch qua con đường duy linh hữu thần(131).
Hướng đi của văn hóa mới, theo Phật Giáo Việt Nam là
sự tranh đấu của con người không phải với thiên nhiên
và với đồng loại, mà là với si mê và dục vọng bản thân:
"Văn hóa xưa kia đã từ hướng đấu tranh với thiên nhiên
mà xoay sang hướng tranh đấu với đồng loại, mà là vói
si mê và dục vọng bản thân: "Văn hóa xưa kia dã từ hướng
tranh đấu với thiên nhiên mà xoay sang hướng tranh đấu với
thiên nhiên mà xoay sang hướng tranh đấu với đồng loại.
Hướng đi của nền văn hóa mới của nhân loại phải là
tranh đấu với dục vọng bản thân(132).
Phật Giáo Việt Nam cho rằng đứng về phương diện chính
trị, tín ngưỡng nhân duyên sinh của Phật giáo là tín
ngưỡng thích hợp nhất cho một chế độ dân chủ và khoa
học, trong khi tín ngưỡng nhất-thần-giáo thì chỉ thích hợp
với chế độ quân chủ và tín ngưỡng đa-thần-giáo thì
chỉ thích hợp với chế độ bộ lạc thời xưa: "Một
quốc gia biết lấy tín ngưỡng vũ trụ quan duyên sinh cộng
nghiệp làm bối cảnh thì có thể thực hiện một sự đoàn
kết sâu rộng và có thể kiến tạo được một nền văn
hóa quốc gia nhân bản, hướng thiện(133).
Để
bồi đắp đức tin về một nền Phật giáo dân tộc, Phật
Giáo Việt Nam trình bày những thiên khảo cứu về sự
nghiệp Phật giáo trong các thời đại Lý và Trần để cho
thấy rằng đạo Phật Việt Nam trong quá khứ không những
đã xây dựng được các sự nghiệp văn hóa nghệ thuật mà
còn xây dựng được các sự nghiệp chính trị và xã hội
nữa(134).
Trong một loạt bài viết dưới tiêu đề "Để đi đến
một nền Phật giáo dân tộc", Minh Hạnh đã viết dưới
tiêu đề "Để đi đến một nền Phật giáo dân tộc",
Minh Hạnh đã viết từ đề tài Vị Sơ Tổ của Phật Giáo
Việt Nam Qua Giáo Lý Của Phật Giáo Việt Nam tới Lễ
Nhạc Của Phật Giáo Việt Nam và Giáo Dục Của Phật
Giáo Việt Nam. Ông đã đề nghị các chùa Việt Nam thờ
thiền sư Tỳ Ni Đa Lưu Chi thay thế thiền sư Bồ Đề Đạt
Ma(135).
Ông đề nghị xiển dương giáo lý Duy Thức để phá
vỡ các luận chứng duy vật và duy thần. Theo ông ngày xưa
Thiền
là căn bản cho Tịnh, bây giờ Thiền đã suy đồi thì
Tịnh trở thành cạn cợt và mê tín. Tịnh độ chỉ có thể
lấy chiều sâu với giáo lý Duy Thức: "Tịnh độ
sẽ là môn thực hành mà phần lý thuyết thì do Duy Thức xây
dựng"(136).
Đứng về phương diện lễ nhạc, Minh Hạnh nhận xét rằng
kiến trúc, âm nhạc và những hình thái sinh hoạt văn hóa
khác của Phật giáo Việt Nam thời ông "chứng tỏ một
khả năng tu chứng thấp kém, bạc nhược." Ông tiếc
rằng truyền thống lễ nhạc cổ điển đã không được tiếp
nốivà phát triển, rằng các bậc tăng già có tu chứng và
có sở đắc tâm linh rất hiếm cho nên lễ nhạc hiện thời
bị lai căng và phá sản…
Ông
đề nghị lập một ban sưu tầm những hình thức lễ nhạc
và kiến trúc của Phật giáo để phân tích, tìm hiểu, bảo
tồn, truyền bá, để phật tử Việt Nam có thể tìm cảm
hứng ở đấy mà sáng tác. Ông lại nhấn mạnh đến sự
tổ chức lại nếp sống thanh quy để tăng già có được
sở đắc tâm linh và cư sĩ lại có tín tâm thuần cẩn, để
cho những hình thức lễ nhạc Phật giáo mới được hiển
lộ và tiếp nối dòng thực tu thực chứng(137)
Song
song với loạt bài Minh Hạnh, còn có những bài viết về những
đề nghị xây dựng trong các ngành giáo dục và hoằng pháp
do Dã Thảo viết. Về vấn đề đào tạo tăng tài, Dã Thảo
đề nghị phân biệt năm ngành chuyên môn tăng già:
1-
Những vị tĩnh tu ẩn cư ở các tu viện và các thiền
thất.
2-
Những vị giảng sư, tốt nghiệp cấp trung học Phật
giáo và có kiến thức trung học chuyên khoa ngoài đời. Phạm
vi hoạt động của các vị này là thuyết pháp tại các chùa
tỉnh hội, chi hội và khuôn hội, và góp sức trong việc hoàn
bị tổ chức cơ sở căn bản của giáo hội từ đơn vị
tỉnh trở xuống.
3- Các vị giáo sư dạy tại các trường trung tiểu học do giáo hội quản trị và tại cấc đơn vị thanh thiếu niên của tổ chức Gia Đình Phật Tử. Các vị này có trình độ trung học Phật giáo và có bằng cấp cần thiết để làm giáo sư các trường tư thục. Họ cũng đảm nhiệm dạy những giờ Phật pháp tại các trường tư thục Phật giáo. 4- Các vị giáo sư Phật học viện. Họ phải học xong cấp đại học Phật Giáo nếu là giáo sư cấp trung học. Nếu dạy cấp đại học, họ phải có trình độ cao hơn, hoặc họ đã trước tác những tác phẩm hữu danh hoặc đã trình bày một luận án mà ban giáo sư của Phật Học Viện đã khảo duyệt. 5- Các vị trú trì đã học những năm Giáo lý quy định cho cấp bực trú trì các chùa tại các Phật học viện, họ dã được huấn luyện về nghi lễ, quản trị tự viện, tổ chức tín đồ, hướng dẫn sự tu học của Phật giáo địa phương. Về chương trình đào tạo tăng tài, Dã Thảo đề nghị chỉ thâu vào Phật học viện những vị nào có trình độ trung học phổ thông. Nếu cần, ông nói, thì tổ chức những lớp dự bị cho những trẻ em chưa có trình độ đó. Chương trình lớp này là 4 năm. Những người có trung học phổ thông thì chỉ cần học nửa năm để có vốn liếng Hán tự và giáo lý phổ thông trước khi vào Phật học viện. Học xong bốn năm trung học, nếu có điều kiện khả năng, họ có thể thi lên đại học. Nếu không muốn lên đại học, họ có thể học bổ túc một năm để ra làm việc trong ba ngành giảng sư Phật học, giáo sư tư thục hoặc trú trì chánh pháp. Sau năm năm hành đạo, họ có thể phát nguyện tu trọn đời hoặc hoàn tục trở về làm cư sĩ để hỗ trợ chánh Pháp. Ở cấp đại học, học tăng sẽ học Phật bằng Hán văn và tham khảo bằng các sách Anh, Pháp, Đức và Nhật văn. Về
giáo dục ni sinh, Dã Thảo đề nghị không có ngành trú trì
mà chỉ có các ngành giáo sư, giảng sư và cán bộ xã hội.
Các ni sinh trong thời gian học Phật cần được học thêm
về khoa nuôi dạy trẻ em, điều dưỡng bệnh nhân, quản trị
bệnh xá, tổ chức các vườn trẻ và các trường tư thục(138).
Được
xuất bản dưới chế độ kiểm duyệt của chính thể Ngô
Đình Diệm, Phật Giáo Việt Nam không nói ra được một
cách công khai lập trường và nguyện vọng của con đường
thứ ba tức là con đường tranh đấu bất bạo động để
đi tới Hòa Bình và một nền trung lập quốc gia đối với
hai khối Cộng Sản và Tư Bản. Tuy vậy, ý hướng này cũng
đã được đọc thấy rõ rệt trong từng số Phật Giáo
Việt Nam. Đạo Phật được trình bày trong tạp chí
Phật Giáo Việt Nam như là một đạo hòa bình, vì những
lý do sau đây:
1-
Đạo Phật không dựa trên những tín điều bất di dịch.
2-
Giáo lý Phật giáo bao trùm được những giáo lý và học thuyết
có vẻ như mâu thuẩn chống đối nhau.
3-
Đối tượng tranh đấu của đạo Phật là tham sân si chứ
không phải là con người.
4-
Đạo Phật tôn trọng sự sống trong mọi hình thức.
Vì
những lý do đó, phật tử mọi nơi cần "liên kết thành
một khối duy nhất, sáng suốt, có đường lối và chương
trình hoạt động rõ ràng, thiết thực… Những người phật
tử cũng như những nước mà đại đa số là phật tử phải
long trọng tuyên bố và cam kết rằng sẽ không vì một lý
do gì mà giết người, hoặc gây chiến tranh, hoặc tham gia
trực tiếp hay gián tiếp vào những khói người hay những
tổ chức có thể là những ngòi lửa chiến tranh. Khối phật
tử chỉ hợp tác với những tổ chức, đoàn thể và những
khối người có mục đích phụng sự hòa bình như mình thôi.
Đối với Phật tử, hòa bình phải có tính cách thiêng liêng
như là một tôn giáo thứ hai của mình"(140).
Nhưng tranh thủ hòa bình thì phật tử phải áp dụng phương thức bất bạo động. Bất bạo động là tranh đấu mà không phải là bất động. Trong bài Đạo Hòa Bình Trong Nền Hòa Bình Thế Giới, ký giả Minh Đức nói đến cuộc tranh đấu bất bạo động của Gandhi để giành độc lập cho Ấn Độ, và nói rằng thủ tướng Nehru tuy là người Ấn Độ Giáo nhưng đã ý thức được tiềm lực lớn lao và quan trọng của Phật giáo trong việc xây dựng hòa bình thế giới nên đã đứng ra phát động phong trào chấn hưng Phật giáo tại Ấn Độ. Ông viết: "Chủ trương bất bạo động, ảnh hưởng Di truyền của đạo Phật, đã được đem ra thử thách bao nhiêu lần trước mũi súng làn đạn của chủ nghĩa đế quốc Anh. Và người đề xướng ra - Gandhi - đã trở thành bậc thánh, không phải chính vì dùng tay không mà toàn thắng súng đạn đó sao? Và Nehru đã nối tiếp sự nghiệp hòa bình của Gandhi, người đã nhẫn nhục chịu đựng suốt 20 năm trời vào tù ra khám trong các cuộc biểu tình im lặng mà hùng hồn, dưới những làn mưa roi da của cảnh binh Anh hùng hổ - người ấy ngày nay đã trở thành kẻ hòa giải vĩ đại trong các cuộc tranh chấp thế giới, không phải chính vì đã trung thành với chủ trương bất bạo động của mình đó chăng?"(147). Người phật tử Việt Nam, do những suy tư và nhận xét như trên, đã dần dần thấy được rằng giữa những lực lượng súng đạn và bạo động, mình vẫn còn một con đường thoát: con đường tranh đấu bất bạo động. Ý nguyện đem tình thương hóa giải hận thù, thực hiện đoàn kết dân tộc và thống nhất đất nước cũng được nói lên bằng những bài ca dao mới của Tâm Kiên như: Tiếng chuông
lay bóng Bồ đề
Con
chim trắng cánh bay về Tây Thiên
Mong
sao dân tộc bình yên
Đạo
hiền che chở dân hiền thương yêu
Dù
cho đất sập trời xiêu
Lòng
tôi vẫn nhớ nhiễu điều giá gương
Khắp
nơi đồng ruộng phố phường
hoặc:
Tay bưng
đĩa muối chấm gừng
Gừng
cay muối mặn xin đừng bỏ nhau
Bắc
Nam chung một mối sầu
Thương
nhau thì đặng, bỏ nhau sao đành
Đêm
ngày một dạ đinh ninh
Nhớ
lời nguyện kết giữa mình với ta:
"Bao
giờ chạch đẻ ngọn đa
"Sáo
đẻ dưới nước thì ta bỏ mình
"Bao
giờ rau diếp làm đình
"Gỗ
lim thái ghém thì mình bỏ ta"
Muốn
cho đoàn kết một nhà
Cùng
nhau xây đắp đạo ta muôn đời
Từ
Bi ta nhớ lấy lời
Nuôi
gương trí tuệ trau dồi thân tâm
Diệt
trừ tham giận kêu căng
Thương
nhau một niệm, tình thâm lâu dài
Khôn
ngoan đá đáp người ngoài
Gà
cùng một mẹ chớ hoài đá nhau
Nhờ
ơn Đức Phật nhiệm màu
Tạp
chí Phật Giáo Việt Nam không phải là một tờ báo khô
khan; trái lại nó chú trọng nhiều tới mặt văn nghệ. Trên
mặt tờ báo này người ta đọc truyện ngắn, nhạc, thơ,
kịch và kịch bằng thơ nữa. Thỉnh thoảng lại có những
bài nghiên cứu văn học, luận bàn về thi văn của các thiền
sư đời Lý và đời Trần, về Nguyễn Du, về Nguyễn Công
Trứ, về Albert Camus, v.v… Trong số những người cộng tác
cho tờ báo ta thấy có Tuệ Uyển, Thiện Hoa, Nguyễn Văn Hầu,
Nguyễn Hữu Bá, Huyền Không, Thạc Đức, Trí Đức, Minh Châu,
Thanh Từ, Kao Khả Chính, Tắc Phước, Như Quán, Tâm Hỷ, Tâm
Châu, Minh Đức, Trọng Đức, Thiều Chi, Lê Văn Định, Thẩm
Oánh, Tống Anh Nghị, Dã Thảo, Trúc Diệp, Dương Xuân Dưỡng,
Kiêm Minh v.v…
Thiền
sư Huệ Quang, Chủ nhiệm của tờ Phật Giáo Việt Nam là
phó hội chủ của Tổng Hội Phật Giáo Việt Nam. Ông tên
là Nguyễn Văn Ân, sinh năm 1988 tại quận Ô Môn tỉnh Cần
Thơ. Hồi còn nhỏ ông theo thân mẫu về Trà Vinh. Năm 19 tuổi
ông xuất gia tại chùa Long Thành ở quận Trà Cú và theo học
với thiền sư Thiện Trí. Gần thiền sư Thiện Trí, ngoài
kiến thức Phật học, ông còn được trao truyền kiến thức
y học Đông Phương nữa. Ông được thiền sư Thiện Trí đặt
tên là Thiện Hải.
Một
hôm đi ngang Tiểu Cần, thấy một ngôi chùa đổ nát, ông
bèn phát tâm trung tu lại. Dân chúng ỏ Tiểu Cần thấy thế
sinh lòng kính mến, bèn mời ông về làm trú trì ngôi chùa
này - chùa Long Hòa - và hết sức ủng hộ ông trong công việc
trùng tu. Chùa Long Hòa trở thành một đạo tràng thanh tịnh.
Năm
1919, ông đắc pháp với thiền sư Từ Vân và được tặng
pháp hiệu là Huệ Quang. Nhờ học tân thư Trung Hoa, biết đến
phong trào chấn hưng Phật giáo tại các nước, ông bèn hợp
tác với các thiền sư Khánh Hòa và Khánh Anh để xúc tiến
việc chấn hưng Phật giáo nước nhà. Ông rất tích cực trong
việc thành lập hội Lục Hòa năm 1923 mà trú sở được đặt
tại chùa Long Hòa do ông trú trì. Hội Lục Hòa là viên đá
đầu tiên của nền Phật giáo chấn hưng tại Nam kỳ. Rồi
ông cộng tác với thiền sư Khánh Hòa để thành lập hội
Nam Kỳ Nghiên Cứu Phật Học năm 1931, thành lập hội Lưỡng
Xuyên Phật Học ra đời vào giữa tháng Mười năm 1935 là
do ông chủ nhiệm. Ông lại còn giữ chức tổng lý Phật học
đường Lưỡng Xuyên thành lập năm 1934.
Từ
năm 1937, ông đã chú trọng đến vấn đề thống nhất Phật
giáo Việt Nam. Viết trong tạp chí Duy Tâm số 25 ra ngày
1.10.1937 ông đề nghị các tạp chí Phật học trong xứ thương
lượng với nhau để định ngàyhọp Đại Hội Lâm Thời của
các hội Phật giáo trong nước để đi đến việc thống nhất.
Ông đề nghị Đại Hội này được tổ chức tại miền Trung
và trước ngày đại hội, các hội phải họp đại hội đồng
riêng từng hội để công cử đại biểu. Ông lại đề nghị
Đại Hội Phật Giáo Toàn Quốc vạch ra chương trình hoạt
động thống nhất va bầu ra sáu ban chuyên môn để al Phật
sự. Đó là các ban Kiểm Duyệt, Đạo Sư Giáo Dục, Luật
Sư, Giảng Sư, Hộ Pháp và Thanh Tra. Tờ Duy Tâm đề
cập tới vấn đền thống nhất gần như mỗi số.
Năm
1948 thiền sư Huệ Quang đứng ra làm chủ tịch Ủy Ban Phật
Giáo Cứu Quốc tỉnh Trà Vinh. Năm 1951, từ hậu phương ông
trở về tham dự Phật sự của Giáo Hội Tăng Già Nam Việt.
Năm 1953 ông được suy tôn làm pháp chủ của Giáo Hội Tăng
Già này(144).
Năm
1956 trong Đại Hội Tổng Hội Phật Giáo Việt Nam tại Sài
Gòn, ông được bầu làm phó hội chủ và Chủ nhiệm tạp
chí Phật Giáo Việt Nam. Ngày 11.11.1956, ông lãnh đạo
phái đoàn Phật Giáo Việt Nam đi dự hội nghị lần thứ
tư của hội Thế Giới Phật Giáo Liên Hữu (World Fellowship
of Buddhists) tổ chức tại Népal từ ngày 15 đến ngày 21 tháng
Mười năm 1956. Cùng đi với ông có thiền sư Tịnh Khiết
và cư sĩ Trần Thanh Hiệp. Tại Calcuta, phái đoàn được thiền
sư Minh Châu, lúc ấy đang du học tại Nalanda, tiếp đón đưa
đi thăm hội Mahabodhi Society và các Phật tích trong vùng. Ngày
13.11.1956, phái đoàn đi Kathmandu, có thiền sư Minh Châu tháp
tùng. Tại Hội nghị Thế Giới Phật Giáo Liên Hữu, thiền
sư Huệ Quang đã trình bày bản tham luận Vai trò Đạo Phật
Trong Xã Hội Loài Người(145).
Ngày
22.11.1956, chùa Ấn Quang nhận được một điện tín do thiền
sư Tịnh Khiết gửi về báo tin thiền sư Huệ Quang đã viên
tịch lúc 18 giờ 15 ngày 2.2.1956 tại bệnh viện Willingdom ở
New Dehli. Phật tử thủ đô kinh hoàng khi nghe tin đó. Thì ra
sau lễ Buddha Jayanti thiền sư Huệ Quang đã lâm bệnh và được
chở vào bệnh viện. Một gân máu đã đứt và các bác sĩ
bệnh viện ở Willingdom đã bó tay. Lễ an táng được tổ
chức ngày 3.12.1956. Phái đoàn Việt Nam trở về Sài Gòn ngày
12.10.1956, thiếu mất một vị cao tăng, đạo hạnh vào bậc
nhất.
Nhục thân thiền sư Huệ Quang được an táng tại chùa A Dục Vương tại New Dehli. Linh vị được cung nghinh về nước. Tại phi trường Tân Sơn Nhất linh vị được rước về chùa Ấn Quang. Số phật tử đi cung nghênh linh vị, trong đó có các phái đoàn từ các tỉnh về, đông đảo đến nỗi chật cả các đại lộ Lý Thái Tổ, Minh Mạng và đường Sư Vạn Hạnh. Năm 1964, một phái đoàn Việt Nam dự Hội nghị Thế Giới Phật Giáo Liên Hữu lần thứ 7 tại Ấn Độ đã đến chùa A Dục Vương làm lễ hỏa thiêu nhục thân thiền sư Huệ Quang và rước xá lợi về chùa Long Hòa, nơi mà ngày xưa thiền sư đã trú trì và hành đạo. Thiền sư Huệ Quang viên tịch khi tạp chí Phật Giáo Việt Nam mới ra đời được ba số. Sau khi ông viên tịch, vị chủ bút của Phật Giáo Việt Nam là thiền sư Nhất Hạnh kiêm nhiệm luôn trách vụ chủ nhiệm của tạp chí. Như chúng ta đã biết, tập thể tăng già Việt Nam dã được thống nhất từ khi Giáo Hội Tăng Già Toàn Quốc được thành lập năm 1951 tại Hà Nội và thượng thủ đầu tiên của Giáo Hội là thiền sư Tuệ Tạng. Thượng thủ Tuệ Tạng mất vào năm1959 tại Hà Nội năm năm sau khi đất nước bị qua phân. Năm 1959, Đại Hội Tăng GiàToàn Quốc lần thứ hai họp tại chùa Ấn Quang đã suy tôn thiền sư Khánh Anh làm thượng thủ.
Thiền
sư Khánh Anh vốn là một đồng chí của thiền sư Huệ Quang.
Ông tên là Võ Hóa, sinh năm 1895 tại làng Phổ Nhì, huyện
Mộ Đức, tỉnh Quảng Ngãi. Năm 22 tuổi ông xuất gia ở chùa
Quang Lộc và được pháp danh là Chân Húy. Sẵn có căn bản
Hán học vững chãi, ông học Phật rất mau chóng và trở thành
một vị giảng sư Phật học nổi tiếng khi mới tròn 30 tuổi.
Năm
1927 ông được mời và Nam dạy lớp Phật học cho chư tăng
ở chùa Giác Hoa, tỉnh Bạc Liêu. Bốn năm sau ông về làm
trú trì chùa Long An ở quận Trà Ôn, tỉnh Cần Thơ và mở
lớp dạy Phật pháp cho tăng đồ trong vùng tới cầu học.
Năm
1933 ông hợp tác với các thiền sư Khánh Hòa, Huệ Quang và
Pháp Hải lập Liên Đoàn Học Xã, và đến năm1935, bắt đầu
dạy Phật học đường của hội Lưỡng Xuyên Phật Học tại
Trà Vinh và cộng tác với tạp chí Duy Tâm. Tại Phật
học đường Lưỡng Xuyên, ông là vị giáo sư dạy nhiều
giờ và nhiều môn nhất trong các giáo sư. Năm 1941 ông được
mời làm giáo sư Phật học trong ba tháng cho Đại Giới Đàn
chùa Linh Phong ở Tân Hiệp. Năm 1942, Phật học đường Lưỡng
Xuyên vì lý do tài chính bị đóng cửa, ông về trú trì chùa
Phước Hậu ở Trà Ôn và mở lớp tăng học ở dấy. Năm
1945 ông được thiền sư Huệ Quang mời về dạy lớp tăng
học ở chùa Long Hòa quận Tiểu Cần.
Sau
Cách Mạng Tháng Tám 1945, ông về nhập thất tại chùa Phước
Hậu. Từ năm 1945 đến 1955 ông đã soạn thảo và đã phiên
dịch rất nhiều tác phẩm. Trong số những dịch phẩm của
ông, có Hoa Nghiêm Nguyên Nhân Luận, Nhị khóa Hợp Giải
và
Hai
Mươi Lăm Bài Thuyết pháp (của Thái Hư), Tại Gia Cư Sĩ Luật,
Duy Thức Triết Học và Quy Nguyên Trực Chỉ.
Ông
có cho xuất bản ba tập Khánh Anh Văn Sao, một trong ba
tập này in những bài của ông viết về giáo lý, những bài
sớ giảng và thi bút do ông sáng tác.
Trong
Khánh
Anh Văn Sao ông có dịch tác phẩm Phật Tổ Đích Truyền
Nhất Thống của thiền sư Luật Truyền, viết bằng chữ
Hán(146).
Tác phẩm này có ghi chép những vị tổ sư kế thế thiền
sư Nguyên Thiều. Khánh An có một lối hành văn rất tự nhiên
và dí dỏm. Trong tập thứ 4 của Khánh Anh Văn Sớ Sao,
thấy có 45 bài thơ bát cú, một lá thơ gửi phụ thân bằng
văn lục bát, rất nhiều liễn đối và những bài phục nguyện.
Nguyên tại Phước Hậu, ông đã làm tới mười cặp câu đối,
câu nào cũng nói được ý chí và hành nguyện của ông:
*Phước
trí hiện tuệ quang, bách ức Tu Di khai nhật nguyệt;
Hậu
thâm lưu pháp hải, tam thiên thế giới đúng ba đào.
(Phước trí thức ánh vàng, trăm ức núi cao, chói lọi ngày đêm truyền chiếu diệu; Hậu thân dồi biển pháp, cả ngàn cõi lớn, dẫy đầy đất nước nổi trào âm) * Phước trí nhị nghiêm thân: tại gia vị Thánh vương, xuất gia vị vô thượng sĩ; Hậu cao tam thiên giới: thứ độ tác Phật tổ, tha độ tác Phật tổ, tha độ tác đại từ tôn. * Phước đức hữu nhân duyên, phàm kiến Phật tánh, niệm Phật danh, lập Phật hội, hoằng Phật kinh, cộng thành Phật đạo; Hậu cao vô phân biệt, hoặc tu dân tâm, giáo dân học, vi dân quan, hành dân chính, bình đẳng dân quyền. * Phước địa kiến pháp tràng, đảo đảo Thần quyền trừ oán tặc; Hậu cơ doanh bảo điện, chấn hưng Phật lực định tâm vương. (Phước lớn nên cờ phướn khắp nơi: trừ mê tín, dẹp quân thù, mượn quyền Thượng đế; Hậu dày đúc nên chùa mỗi xứ: vững Giác thành yên tu sĩ, học phép tâm vương). * Phứơc lộc thọ, vương tướng quân dân, tổng giai thị nâhn tiền sự vật; Hậu cao thâm, sơn hà đại địa, đẳng vô phi thức nội sở năng. (Phước lộc chi, thọ yểu mà chi, vua chúa quan quyền trò dưới mắt; Hậu bạc rứa, cao thâm cũng rứa, núi sông trời đất cảnh trong mơ). Những câu đối trên đây là do chính thiền sư tự dịch. Ta hãy đọc thêm một bài văn phục nguyện ông viết để đọc trước đài kỷ niệm tử sĩ, nhân ngày Phật đản một năm mà cuộc chiến tranh Pháp-Việt đã tàn sát không biết bao nhiêu sinh mạng. "Phục nguyện: Cuộc lễ tắm Phật, tượng sắc thân rửa sạch bụi vô minh. Ngày vía giang sanh, ơn giáo chủ đượm nhuần đời hữu lậu. Hoặc hy sinh đôi bên chiến đấu: người Việt người Tây, từ Nam chí Bắc, đã biết bao dũng tướng hùng binh. Hoặc uổng tử những lúc thình lình: chú Tàu chú Thổ, từ trẻ chí già, lại xiết mấy thường dân phu phụ. Chà Và, Khách Trú, Ma Rốc, Lê Dương, chết nhà, chết đường, chết oan, chết dịch, đã bao thuở tối tăm mù mịt, nào ai cho đèn lửa khói hương? Phải bây giờ sáng suốt lo lường, nhờ Phật chiếu hào quang gương tuệ. Âm binh ơi! Cô Hồn! Hễ: Dẫu phảng phất hồn ma phách quế Nhưng sẵn sàng tâm Pháp tánh Trời Về đây nghe kinh kệ hôm mai Cùng nhau chứng thánh hiền Phật đạo". Đầu năm 1955, hội Phật Học Nam Việt cung thỉnh ông vào ban Chứng Minh Đạo Sư, và ngày 31 tháng Ba 1957, đại hội Giáo Hội Tăng Già Nam Việt họp tại Ấn Quang suy tôn ông làm pháp chủ của giáo hội. Cũng tại chùa Ấn Quang, năm 1959, đại hội Giáo Hội Tăng Già Toàn Quốc kỳ II tôn ông lên ngôi thượng thủ. Từ đó ông thường trú nhiều tại chùa Ấn Quang để cầm cương lĩnh cho công việc hoằng pháp và tiếp tục công trình trước tác. Năm 1961, biết cơ duyên gần đến, ông về chùa Phước Hậu thăm, rồi từ đó trở về chùa Long An ở Trà Ôn, nơi ông đã từng trú trì từ năm 1931, từ hồi ông còn 36 tuổi. Ông viên tịch ngày 16.4.1961 tại chùa này, thọ được 66 tuổi. Lễ an táng của thượng thủ Khánh Anh được tổ chức trọng thể tại chùa Ấn Quang. Nhục thân thiền sư được mai táng tại An Dưỡng Địa của Giáo Hội, gần chùa Huệ Nghiêm. Thiền sư Khánh Anh là một vị cao tăng bác học. Sự nghiệp đạo hạnh và văn hóa của ông là một viên đá lớn trong ngôi nhà Phật học ở Việt Nam. Với sự vắng mặt của thiền sư Khánh Anh, ba cây cột trụ đầu tiên của nền chấn hưng Phật giáo miền Nam(147) đã không còn nữa. Những thế hệ mà họ đào tạo nên đã có đủ khả năng tiêp tục công trình khởi xướng từ hơn ba mươi mấy năm về trước.
Sau
đây là những Phật sự đáng kể được thực hiện trong
thời gian 1956 đến 1962:
1956
-
Tổng Hội Phật Giáo Việt Nam dời trụ sở vào chùa Ấn Quang
tại Sài Gòn.
-
Tạp chí Phật Giáo Việt Nam chào đời
-
Buổi phát thanh hàng tuần do Tổng Hội Phật giáo Việt Nam
trên đài Sài Gòn .
-
Phật học viện Việt Nam tại Trung Phần khai giảng tại chùa
hải Đức, Nha Trang.
- Phật học đường Phước Hòa tại Trà Vinh được thành lập(148) - Chùa Xá Lợi được khởi công xây cất. - Đại Hội Ni Bộ miền Nam tại chùa Huê Lâm. - Đại giới đàn tại chùa Hải Đức, Nha Trang. - Phật lịch được thống nhất: 2500 PL: 1956 TL - Phái đoàn Tổng Hội Phật giáo Việt Nam đi dự lễ Budha Jayanti ở Ấn Độ. 1957 - Các khóa "Tu Nghiệp Trú Trì" và "Như Lai Sứ Giả" được tổ chức tại các chùa Ấn Quang, Pháp Hội và Dược Sư. - Thiền sư Khánh Anh được Giáo Hội Tăng Già Nam Việt suy tôn làm pháp chủ. - Thiền sư Giác Nhiên lên làm hội trưởng hội Việt Nam Phật Học (miền Trung) - Đại Hội Tổng Hội Phật giáo Việt Nam kỳ III tại Sài Gòn. - Thiền sư Tịnh Khiết dự lẽ Buddha Jayanti ở Thái Lan. - Đại hội đồng hội Việt Nam Phật Học tại chùa Từ Đàm gửi điện văn cho chính quyền phản đối việc loại trừ ngày Phật Đản ra những ngày lễ chính thức của quốc gia. - Lễ Phật Đản tổ chức rất lớn trong toàn quốc. - Giáo Hội Tăng Già Nam Việt ấn hành tài liệu Phật Học Phổ Thông cho các giảng sư đoàn và các vị "Như Lai sứ giả" - Hội Việt Nam Phật Học dđáianh hiệu là Hội Phật Giáo Việt Nam tại Trung Phần. - Tu viện Nguyên Thiều được xây dựng tại Bình Định - Các lớp Phật học phổ thông đầu tiên được tổ chức tại Ấn Quang và các tỉnh cho giới cư sĩ. - Đại Hội Giáo Hội Tăng Già Trung Việt kỳ III tại chùa Linh Quang, Huế. - Ni học viện Tăng Già khai giảng ở Vĩnh Hội, Sài Gòn. - Đại Hội Gia Đình Phật Tử Trung Phần. - Phái Đoàn Tổng Hội Phật Giáo Việt Nam dự đại hội Thế Giới Phật Giáo Liên Hữu lần thứ V tại Vọng Các. 1959 - Đại Hội Giáo Hội Tăng Già Toàn Quốc kỳ III tại chùa Ấn Quang - Thiền sư Khánh Anh lên làm thượng thủ Giáo Hội Tăng Già Toàn Quốc - Hội Việt Nam Phật Giáo (Bắc Việt tại miền Nam) và gia đình Phật tử Tâm Minh tổ chức Đại Nhạc Hội. - Gia Đình Phật Tử tổ chức lễ kỷ niệm mười năm - Giáo Hội Tăng Già Nam Việt thành lập giảng sư đoàn lưu động - Phái đoàn Tổng Hội Phật giáo Việt Nam dự lễ Buđha Jayanti tại Tokyo - Đại hội Tổng Hội Phật giáo Việt Nam kỳ IV tại chùa Xá Lợi - Thiền sư Tịnh Khiết làm trưởng ban tổ chức lễ Phật Đản - Tạp chí Liên Hoa của Giáo Hội Tăng Già Trung Việt ra đời 1960 - Ni học viện Từ Nghiêm khai giảng tại sg - Ban Liên Lạc Văn Hóa của Đoàn Thanh Niên Tăng Ni Việt Nam được thành lập và tập san Sen Hái Đầu Mùa ra đời. - Đoàn Thanh Niên Phật Tử được thành lập tại chùa Ấn Quang, Sài Gòn. - Tu viện Quảng Hương Già Lam được xây cất. -
Đại Hội Hoằng Pháp toàn quốc tại chùa Hải Đức, Nha Trang.
(129)Cư
sĩ Chánh Trí Mai Thọ Truyền là nhân vật chủ chốt của hội
Phật Học Nam Việt, và thiền sư Trí Quang là nhân vật chủ
chốt của hội Việt Nam Phật Học.
(131)Xem
bài Hướng Đi Của Người phật tử Việt Nam. Phật Giáo
Việt Nam, số 1, ra ngày trăng tròn tháng Tám năm Bính thân,
(1956)
(134)Đọc
bài Sự Nghiệp Của Phật giáo Trong Triều Lý của Thạc
Đức trong Phật Giáo Việt Nam, số 1 năm Bính thân, 1956.
(135)Vị
thiền sư dầu tiên đem thiền học tới Việt Nam là Dharmadeva
(Pháp Thiên) thầy của thiền sư Huệ Thắng. Ông đến Giao
Châu vào khoảng giưa thế kỷ thứ năm (xem Việt Nam Phật
Giáo Sử Luận, Tập I, trang 100) và có lẽ trước chuyến
đi của Bồ Đề Đạt Ma sang nước Lương.
(146)Việt
Nam Phật Giáo Sử Luận, Tập II, có nói sơ lược đến
thiền sư Luật Truyền. Nay xin bổ túc thêm. Theo thiền sư
Khánh Anh thì thiền sư Luật Truyền họ Trần, sinh ở Cổ
Tháp, Hoa Châu, Phúc Kiến, mười tám tuổi đã thôi Nho học
theo Phật học. Trong số những sáng tác của ông có: Thiện
Ác Quy Cảnh, Xuất Gia Yếu Tập, Tam Bảo Biện Hoặc, Quy Nguyên
Sự Nghĩa, Đại Phương Tiện Phật Báo Ân Kinh Chú Giải, Địa
Tạng Bổn Nguyện Kinh Chú Giải, Hoằng Giới Đại Học, Giáo
Tập Tam Tạng Mục Lục, Giáo Tập Tam Tạng Pháp Sở. Tất
cả những tác phẩm này đều bi thiêu hủy trong trận cháy
nhà chứa kinh ngay bên chùa Từ Quang núi Đá Trắng
(148)Phật
học đường này được hai thiền sư Tịnh Đức và Trường
Lạc điều khiển từ 1956 đến 1958. Khi thiền sư Tịnh Đức
viên tịch, thiền sư Thanh Từ, giảng sư của Giáo Hội Tăng
Già Nam Việt được chỉ định thay thế thiền sư Tịnh Đức
để giám đốc Phật học đường này.
|