|
CHƯƠNG XXXIII
CHÙA LINH QUANG VÀ CHÙA TỪ ĐÀM Ở TRUNG VIỆT
Thiền
sư Mật Khế, như ta đã biết, là một trong vị giảng sư
đầu tiên của hội An Nam Phật Học. Ông lại còn có công
trong việc xây dựng tổ chức Sơn Môn Tăng Già và thành lập
các trường Sơn Môn Phật Học và An Nam Phật Học. Sư đệ
của ông là thiền sư Mật Thể đã đóng góp nhiều về phương
diện biên khảo và dịch thuật, và cũng đã từng lớn tiếng
hô hào "cải tổ Sơn Môn" gây nên nhiều phản ứng trong
giới tăng già và thành lập các trường Sơn Môn Phật Học.
Sư đệ của ông là thiền sư Mật Thể đã đóng góp nhiều
về phương diện biên khảo và dịch thuật, và cũng đã từng
lớn tiếng hô hào "cải tổ Sơn Môn" gây nên nhiều phản
ứng lớn trong giới tăng già, phản ứng thuận cũng có, phản
ứng nghịch cũng có. Sự tham dự của Mật Thể vào Quốc
Hội Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa cũng là một hiện tượng
mới trong Phật giáo. Ngoài hai vị đệ tử này, thiền sư
Giác Tiên chùa Trúc Lâm còn có hai vị đệ tử khác cũng đã
đóng góp khá hiều cho việc xây dựng đoàn thể tăng già
tịa Thừa Thiên và Trung Việt. Đó là các thiền sư Mật Hiển
và Mật Nguyện.
Từ
cuối 1946 trở đi, Sơn Môn Tăng Già Thừa Thiên đã bắt đầu
hoạt động trở lại với sự cố gắng của hai thiền sư
huynh đệ này. Thiền sư Mật Hiển kế thế trú trì chùa Trúc
Lâm, còn thiền sư Mật Nguyện được Sơn Môn chỉ định
về trú trì chùa Linh Quang. Chùa này bắt đầu từ năm 1951
đã chính thức trở thành trụ sở trung ương của Sơn Môn
Tăng Già Thừa Thiên và Trung Việt.
Chùa
Linh Quang được xây dựng năm 1852, và được thiền sư Liễu
Triệt là tổ khai sơn(120).
Chùa được thiền sư Nguyên Cát chùa Quốc Ân đảm nhiệm
trách vụ trú trì từ năm 1882 sau khi thiền sư Liễu Triệt
mất. Năm 1914 thiền sư Đắc Cần kế vị thiền sư Nguyên
Cát. Năm 1920, thiền sư Phước Hậu kế vị thiền sư Đắc
Cần.
Năm
1944 các lớp đại, trung và tiểu học của trường Sơn Môn
Phật Học được dời về chùa Linh Quang và thiền sư Trí
Thủ được giao phó trách nhiệm giám viện của trường và
trú trì của chùa. Tháng Sáu năm 1946, Sơn Môn Tăng Già Thừa
Thiên quyết định dời trường về chùa Báo Quốc, và trách
vụ trú trì chùa Linh Quang được giao phó cho thiền sư Mật
Nguyện.
Năm
1947 trong khi thiền sư Trí Thủ khai giảng Phật học đường
Trung Việt tại chùa Báo Quốc thì các thiền sư Mật Hiến
tại Trúc Lâm và Mật Nguyện tại Linh Quang cũng bắt đầu
tích cực xây dựng tổ chức Sơn Môn Tăng Già Trung Việt,
thiền sư Mật Nguyện được Sơn Môn Thừa Thiên cử làm chánh
trị sự vào đầu năm 1951, đại biểu thiền sư quy tụ về
chùa Linh Quang để họp hội đồng. Sơn Môn Tăng Già Trung
Việt được thành lập từ đại hội đồng này và thiền
sư Mật Hiển chùa Trúc Lâm được công cử làm trị sự trưởng.
Thiền sư Tịnh Khiết được suy tôn làm tùng lâm pháp chủ.
Văn phòng của Sơn Môn Tăng Già Trung Việt cũng được đặt
tại chùa Linh Quang.
Mùa hè năm 1952, Sơn Môn Tăng Già Trung Việt tổ chức một mùa kết hạ an cư tại chùa Linh Quang cho tăng sĩ đại biểu từ các tỉnh miền Trung về. Mùa kết hạ này đã thắt chặt được mối đồng tâm giữa các Sơn Môn địa phương và trung ương. Từ đó năm nào tại chùa Linh Quang cũng có tổ chức an cư kết hạ cho chư tăng. Đầu năm 1960 vì nhu cầu mới, chùa Linh Quang lại được trùng tu một lần thứ hai để đủ cơ sở cho sự hành đạo của Sơn Môn
Thiền
sư Mật Nguyện đảm nhiệm trách vụ trị sự trưởng Sơn
Môn Tăng Già Trung Việt từ năm 1954. Ông rất xứng đáng trong
trách vụ này, vì ngoài học lực vững chãi về nội điển,
ông còn có tài tổ chức và hành chính. Ông sinh năm 1911 tại
làng Phú Xuân, huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên. Tên đời
của ông là Trần Quốc Lộc. Năm 1926 ông xuất gia theo hầu
thiền sư Giác Tiên ở chùa Trúc Lâm, và được thế độ
năm19 tuổi, pháp danh là Tâm Như. Ông được theo học trường
Sơn Môn Phật Học ở Tây Thiên. Năm 1937 ông vào Bình Định
thụ Đại Giới đàn Tịnh Lâm ở lại học thêm nội điển
với thiền sư Phước Huệ chùa Thập Tháp. Năm 1946, ông khởi
sự lập chùa Bảo Tràng Huệ Giác tại Hòa Tân (Bình Định),
nhưng chiến tranh đã phá hủy công trình này. Về Huế, ông
được Sơn Môn Thừa Thiên giao phó trách vụ trú trì chùa
Linh Quang trong đại hội ngày 10.4.1946.
Ông
được mời làm giảng sư cho hội An Nam Phật Học từ hồi
hai mươi tuổi, khi còn là sa di. Đầu năm 1951, ông làm chánh
trị sự Sơn Môn Thừa Thiên, và cuối năm ấy được mời
dạy tại Phật học đường Báo Quốc. Năm 1954, ông được
bầu cử làm trị sử trưởng Sơn Môn Tăng Già Trung Việt.
Ngày 10.9.1959, trong đại Giáo Hội Tăng Giàtoàn quốc kỳ II,
tại chùa Ấn Quang Sài Gòn, ông được bầu làm trị sự phó
Giáo Hội Tăng Già Việt Nam kiêm nhiệm chức vụ ủy viên
nghi lễ của Giáo Hội này.
Năm
1964, ông được mời làm phó đại diện của Giáo Hội Phật
Giáo Việt Nam Thống Nhất tại miền Vạn Hạnh. Năm 1965, Viện
Cao Đẳng Phật Học Sài Gòn mời ông vào ban giảng huấn.
Năm 1968 ông được công cử vào chức vụ chánh đại diện
Miền Vạn Hạnh của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất
kiêm chánh đại diện tỉnh Thừa Thiên và thị xã Huế. Ông
đã dịch các kinh Giải Thâm Mật và Vô Lượng Thọ,
tác
phẩm Tân Duy Thức Luận của Thái Hư và viết một số
bài đăng trong các tạp chí Viên Âm, Giác Ngộ và Liên
Hoa. Ông tịch ngày 18-8-1972 tại chùa Linh Quang Huế, thọ
62 tuổi. Sau khi ông mất, chùa Linh Quang được đặt dưới
sự chăm sóc của sư huynh ông là thiền sư Mật Hiển, lúc
ấy đang làm đặc Ủy Tăng Sự của Tỉnh Giáo Hội Thừa
Thiên.
Sơn
Môn Tăng Già Trung Việt từ năm 1959 đã cho phát hành nguyệt
san Liên Hoa do thiền sư Đôn Hậu chùa Linh Mụ làm chủ
nhiệm và thiền sư Đức Tâm chủ bút. Tòa soạn của tạp
chí này được đặt tại chùa Diệu Đế. Cộng tác với tạp
chí này có nhiều vị tăng sinh đang chu du tại ngoại quốc.
Hội
Việt
Nam Phật Học, hậu thân củahội An Nam Phật Học, bắt
đầu được hoạt động từ năm 1948 và đặt trụ sở tại
số 1B đường Nguyễn Hoàng, Huế. Cư sĩ Chơn An Lê Văn Định
được mời làm vị hội trưởng đầu tiên của hội. Những
nhân vật hoạt động nhất của hội đều là những người
đã từng hoạt động trong hội An Nam Phật Học cũ, trong đó
có các ông Hưng Luyến Vương và Nguyễn Văn Quỳ.
Cư
sĩ Chơn An là một nhà cựu học, đã từng làm tuần vũ tỉnh
Phan Thiết trong chính phủ Nam Triều. Ông đã từng được
học Phật với thiền sư Giác Tiên và thiền sư Phước Huệ.
Năm 1948 ông là một nhân sĩ không giữ chức vụ nào trong
chính quyền. Ông là người rất thiết tha với vấn đề thống
nhất Phật giáo. Trong thời gian phục vụ tại hội Việt Nam
Phật Học, ông đã xúc tiến mạnh mẽ việc Việt hóa và
thống nhất hóa nghi lễ của giới cư sĩ. Nhiều bài sám văn,
tác bạch và phát nguyện văn trong cuốn Nghi Thức tụng
Niệm của giới cư sĩ (được Giáo Hội Phật Giáo Việt
Nam Thống Nhất chuẩn y năm 1964) đã được ông biên soạn.
Thiền sư Thiện Siêu, giảng sư của hội Việt Nam Phật Học
và trú trì chùa Từ Đàm, đã giúp ông tận lực trong việc
biên soạn những văn kiện nghi lễ này.
Ông
thọ Bồ Tát tại gia ở Giới Đàn Phật Học Viện Nha Trang
năm 1958, lúc ông được 78 tuổi. Nhân dịp này ông đã viết
bài phát nguyện sau đây, đầy ý thức cảnh giác và phản
tỉnh:
Sự trục nhãn tiền quá Cư
sĩ Chơn An chỉ làm hội trưởng hội Việt Nam Phật Học trong
ba niên khóa đầu. Đến năm 1950, thiền sư Trí Thủ được
bầu làm hội trưởng hội Việt Nam Phật Học.
Đây
là lần đầu tiên một vị tăng sĩ đứng ra làm hội trưởng
của một hội Phật. Từ đây trở đi, chức vụ hội trưởng
hội Việt Nam Phật Học luôn luôn được đảm nhiệm bởi
các phần tử Tăng Già. Diễn biến này là một sự kiện rất
đáng chú ý. Các chức vị trong Viện Hóa Đạo của Giáo Hội
Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất sau đây đều do các phần
tử tăng già đảm nhiệm. Đây không phải là sự ngẫu nhiên
mà là một diễn biến hợp lý. Tại miền Trung, cơ sở của
Phật giáo đã được xây dựng rất sớm ở cấp huyện và
xã một cách vững vàng. Ở Thừa Thiên, có thể nói rằng
không nơi nào không có tổ chức khuôn hội và niệm Phật
đường. Khuôn hội tức là tổ chức của hội Việt Nam
Phật Giáo ở đơn vị xã. Khi cơ sở của Phật giáo đã được
tổ chức khá hoàn bị như thế thì sự chờ đợi và mong
mỏi của tín đồ ở cấp lãnh đạo cũng tăng trưởng một
cách đáng kể. Các thiền sư trong lúc giảng dạy và hóa đạo
đã chứng tỏ học thức và khả năng lãnh đạo của mình,
do đó, người tín đồ bắt đầu nhìn vào họ như những
bậc lãnh đạo thực sự, và hoan hỉ thấy họ ngồi ở cấp
tổng trị sự hơn là thấy những Phật tử cư sĩ cũng "cư
sĩ" như mình.
Thiền
sư Trí Quang lên làm hội trưởng hội Việt Nam Phật Học
từ năm 1954. năm sau, tuy đại lão thiền sư Giác Nhiên đứng
ở cương vị hội trưởng, ông vẫn thực sự điều khiển
công việc của hội trong vai trò phụ tá. Trí Quang là một
trong những tăng sĩ đã được đào tại trường An Nam Phật
Học, và đã tốt nghiệp trường này. Năm 1954, ông đã 31
tuổi, nghĩa là đã khá trưởng thành để đảm nhiệm một
trách vụ lãnh đạo. Thiền sư Trí Nghiễm mà sau này được
biết dưới pháp hiệu Thiện Minh đã được gửi về các
tỉnh cao nguyên và bình nguyên miền Nam Trung Việt để củng
cố lại cơ sở của hội Việt Nam Phật Học từ năm 1949.
Trí Nghiễm cũng tốt nghiệp một lần với Trí Quang và năm
Trí Quang 31 tuổi thì Trí Nghiễm cũng đã 33 tuổi. Đó là
những vị tăng trẻ tuổi, xuất sắc cả về phương diện
nội điển lẫn tài năng tổ chức. Thiền sư Trí Nghiễm đã
xây dựng được cơ sở vững chắc cho hội Việt Nam Phật
Học tại các tỉnh Lâm Viên, Đồng Nai Thượng, Khánh Hòa,
Phan Rang và Phan Thiết. Thiền sư Trí Quang từ năm 1954 đến
1957 trong khi giữ trách vụ hội trưởng trong trị sự hội
Việt Nam Phật Học đã cho tái bản tờ Viên Âm và tích
cực sáng tác và biên khảo. Tờ Viên Âm do một tay ông
chủ trương vừa chăm sóc vừa biên tập. Ông dịch Luận
Chỉ Quán, Luận Đại Thừa Khởi Tín rồi biên tập Cuốn
Sách Nhỏ Của Người Xuất Gia và Cuốn Sách Nhỏ Của
Người Tại Gia. Hai "Cuốn sách nhỏ" này nói lên được
ý hướng của ông về vấn đề đào tạo những người Phật
tử tăng già và cư sĩ mẫu mực. Về "mẫu mực" của người
xuất gia, ông đưa ra hình ảnh của hai vị cao tăng là Huệ
Năng và Cưu Ma La Thập và biên tập các cuốn Ngài Huệ
Năng Và Ngài La Thập. Rồi ông dịch Luận Đại Trượng
Phu, biên tập Lịch Sử Truyền Bá Phật Giáo, Vang Bóng
Đức Từ Phụ. Ông cũng dịch Từ Bi Thủy Sám Pháp,
Dược Sư Sám Pháp và Lương Hoàng Sám Pháp.
Đồng
thời với Trí Quang và Trí Nghiễm còn có Trí Đức tức là
thiền sư Thiện Siêu, cũng là người cùng tốt nghiệp trường
An Nam Phật Học. Ở chức vụ trú trì chùa Từ Đàm, thiền
sư Thiện Siêu làm giảng sư cho hội Việt Nam Phật Học, giảng
dạy tại Phật học đường Báo Quốc và biên tập tạp chí
Viên
Âm. Ông tiếp tục công trình dịch và chú thích kinh Lăng
Nghiêm mà cư sĩ Tâm Minh làm được nửa chừng trên tạp
chí Viên Âm cũ. Kiến thức về nội điển rất vững
chãi, ông bắt đầu dịch các kinh trong bộ Trường A Hàm,
kinh
Phá
Cú và một số các tác phẩm Phật học viết bằng văn
bạch thoại như Nhất Cá Khoa Học Giả Nghiên Cứu Phật
Kinh Đích Báo Cáo của kỹ sư Uông Trí Biểu. Khi Phật
học viện Hải Đức ở Nha Trang được thành lập năm 1956,
ông được mời làm đốc giáo.
Thiền
sư Thiện Minh (tức Trí Nghiễm) sau khi xây dựng cơ sở vững
chãi cho Phật Giáo tại các tỉnh miền Nam Trung Việt đã trở
về Huế và làm hội trưởng của tổng trị sự hội Việt
Nam Phật Học từ năm 1958 đến 1962. Về phương diện tài
tổ chức và hành chính, thiền sư Thiện Minh xuất sắc hơn
cả hai vị đồng liêu của ông là Trí Quang và Thiện Siêu.
Ông là một người thông minh đối cơ nhanh chóng, trong những
buổi đại hội đồng khó khăn ông thường được mời làm
chủ tọa bởi vì ít ai hơn được ông trong trách vụ ấy.
Năm 1963 chính ông đã đứng làm trưởng phái đoàn Ủy Ban
Liên Pháp Bảo Vệ Phật Giáo để thương thuyết một phái
đoàn liên bộ của chính phủ Ngô Đình Diệm, và đã dồn
phó tổng thống Nguyễn Ngọc Thơ và các vị bộ trưởng cùng
đại biểu chính phủ vào thế phải ký bản Thông Cáo Chung
trong đó những yêu sách của Phật giáo đã được chính phủ
làm thỏa mãn. Thời gian 1958-1962 là một khoảng thời gian
khó khăn trong đó áp lực của chính quyền Ngô Đình Diệm
càng lúc càng trở nên nặng nề đối với Phật giáo đồ.
Phật
học đường Báo Quốc do thiền sư Trí Thủ chủ trì là một
đạo tràng rất hưng thịnh. Từ năm 1950 trở đi, Phật học
đường này đã bắt đầu thu nạp nhiều học tăng từ Hà
Nội và Sài Gòn gửi tới. Trong số các giáo sư giảng dạy
tại Phật học đường, có các thiền sư Bích Phong, Mật Nguyện,
Đôn Hậu, Trí Thủ, Quang Phú, Trọng Ân, Hoằng Thơ, Trí Quang
và Trí Đức. Phật học đường này đã cung cấp giảng sư
cho các tỉnh hội Phật học miền Trung, cố vấn giáo lý cho
các đơn vị Gia Đình Phật Tử và giáo sư Phật pháp cho các
tư thục Bồ Đề.
Thiền
sư Trí Thủ cũng giữ trách vụ ủy viên hoằng pháp cho hội
Việt Nam Phật Học khi hội này được tái lập năm 1948. Năm
1952, ông đặt đá cho ngôi trường trung học tư thục Bồ
Đề đầu tiên của hội Việt Nam Phật Học tại thành nội
Huế. Từ đó về sau, các trường tư thục Bồ Đề được
liên tiếp dựng lên ở các tỉnh hội và chi hội khắp miền
Trung cho các cấp tiểu học và trung học. Những trường này
đều do các tỉnh hội và chi hội của hội Việt Nam Phật
Học quản trị. Tại các trường Bồ Đề, một giờ Phật
pháp hàng tuần được thiết lập trong chương trình giáo dục,
ở cấp tiểu học cũng như ở cấp trung học, Trường Bồ
Đề trở nên một môi trường mới cho sự hoằng pháp và
giáo dục thiếu nhi trên tinh thần đạo Phật. Theo báo cáo
của Tổng Vụ Giáo Dục Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống
Nhất năm 1973 thì số lượng các trường tư thục Bồ Đề
toàn quốc trong năm này lên tới 163 trường.
Trong
số những người đứng ra tổ chức và quản trị các trường
tư thục Bồ Đề người ta thấy có nhiều huynh trưởng của
tổ chức Gia Đình Phật Tử, một tổ chức giáo dục thanh
thiếu niên trong phạm vi tổ chức của hội Việt Nam Phật
Học.
Tổ
chức Gia Đình Phật Tử đã được thai nghén từ năm 1943
khi đoàn Phật Học Đức Dục dưới sự hướng dẫn của
cư sĩ Lê Đình Thám bắt đầu tổ chức và giáo dục các
đoàn Đồng Ấu Phật Tử theo phương pháp sinh hoạt thành
niên. Những đơn vị tổ chức được gọi là những Gia
Đình Phật Hóa Phổ.
Năm
1947, sau ngày tan vỡ mặt trận kháng chiến Huế, một số
các đoàn viên cũ của các Gia Đình Phật Hóa Phổ hợp nhau
tại nhà của cư sĩ Phan Cảnh Tú để tìm lại không khí đầm
ấm trước chiến tranh. Nhờ đó, tổ chức Gia Đình Phật
Hóa được tái lập. Hai gia đình đầu tiên là gia đình
Hướng
Thiện do cư sĩ Phan Cảnh Tú làm phổ trưởng và gia đình
Gia
Thiện do cư sĩ Nguyễn Văn Phiên làm phổ trưởng. Năm
1948 khi hội Việt Nam Phật Học đặt trụ sở tại ngôi nhà
số 1B đường Nguyễn Hoàng thì tổ chức Gia Đình Phật Hóa
Phổ cũng đặt trụ sở và mở niệm Phật đường tại đây.
Ngày 8 tháng Chạp âm lịch năm ấy, Gia Đình Phật Hóa Phổ
tổ chức lễ thành lập chính thức tại chùa Từ Đàm. Nhiều
gia
đình khác được tiếp tục thành lập sau
Hướng Thiện
và Gia Thiện, như Chơn Trí, Hương Tử, Hương Đàm…
Ban hướng dẫn hồi ấy gồm có các cư sĩ Võ Đình Cường,
Phan Cảnh Tuân, Văn Đình Hy, Cao Chánh Hựu, Phan Xuân Sanh, Hoàng
Thị Kim Cúc, Tịnh Nhân, Tống Hồ Cầm, Đặng Tống và Lê
Văn Dũng. Những trại huấn luyện được tổ chức để đào
tạo cán bộ hướng dẫn và điều khiển các gia đình. Cư
sĩ Võ Đình Cường, tác giả sách Ánh Đạo Vàng, là
người đóng vai trò quan trọng nhất trong công trình tái lập
và tổ chức Gia Đình Phật Hóa Phổ. Ông giữ chức vụ trưởng
ban hướng dẫn của tổ chức này.
Tổ
chức Gia Đình Phật Hóa Phổ phát triển ất mau chóng và lan
rộng tới miền Nam và miền Bắc. Ngoài Bắc, các cư sĩ Nguyễn
Văn Nhã, Lê Văn Lâm, Vũ Thị Định tạo dựng các cơ sở
đầu tiên cho Gia Đình Phật Hóa Phổ tại Hà Nội và Hải
Phòng. Trong Nam, các cư sĩ Tống Hồ Cầm và Nguyễn Văn Thục
xây dựng các đơn vị Gia Đình Phật Hóa Phổ trong phạm vi
hội Phật Học Nam Việt.
Năm
1951, hội nghị toàn quốc của Gia Đình Phật Hóa Phổ được
triệu tập tại Huế và danh hiệu của tổ chức được đỏi
thành Gia Đình Phật Tử. Một Nội Quy Trình đã được đại
hội này soạn thảo và chấp nhận.
Gia
Đình Phật Tử là một tổ chức giáo dục thiếu nhi quan
trọng và có sắc thái độc đáo: có thể nói đó là một
trong những nét đặc biệt nhất của đạo Phật tại Việt
Nam. Tại các nước Phật giáo trên thế giới, chưa có tổ
chức thiếu nhi nào đông đảo và có ổ chức khéo léo như
thế. Vào năm 1973, số lượng vừa huynh trưởng vừa đoàn
viên của tổ chức này đã lên quá mức 200.000 người. Làm
cố vấn giáo lý và giảng sư cho các Gia Đình Phật Tử đầu
tiên là các vị học tăng trung học của Phật học đường
Báo Quốc. Tài liệu học Phật đầu iên cho thanh thiếu niên
là tập Phật pháp do các học tăng Minh Châu, Đức Tâm,
Thiên Âm, Chân Trí và Trí Không soạn, xuất bản vào năm 1950.
Môi trường hành đạo, với sự thành lập khuôn hội tại các đơn vị xã và sự thiết lập các trường Bồ Đề và tổ chức Gia Đình Phật Tử, đã trở nên quá rộng lớn.
Số lượng tăng
sĩ được đào tạo tại Phật học đường Báo Quốc và các
ni viện tại Huế không đủ để làm thỏa mãn một phần
mười nhu cầu hành hóa. Các Phật học đường khác tại thị
xã lớn như Nha Trang, Đà Nẵng và các lớp tu nghiệp cho tăng
sĩ tại trụ sở Sơn Môn Tăng Già tại các tỉnh đã được
tuần tự thiết lập để đào tạo và cung cấp thêm cán bộ
tăng sĩ cho môi trường hành đạo càng ngày càng Phật tử
ấy.
Phật
học đường Phổ Đà ở Đà Nẵng đã được thiền sư Trí
Hữu quản đốc Phật học đường Bảo Tịnh ở Tuy Hòa được
thiền sư Trí Thành điều khiển. Phật học đường Nha Trang
do thiền sư Huyền Quang giám đốc từ năm 1956. Đến năm 1958,
Phật học viện Trung Phần được thiết lập tại chùa Hải
Đức Nha Trang do thiền sư Trí Thủ giám đốc và thiền sư
Thiện Siêu đốc giáo. Phật học đường Nha Trang được sát
nhập vào Phật học viện này, và thiền sư Huyền Quang trở
thành tổng thư ký của Phật học viện. Tại chùa Thập Tháp
ở Bình Định, thiền sư Kế Châu cũng thiết lập Phật học
đường Phước Huệ.
Ni
viện Diệu Đức tại Huế được xây dựng từ năm 1932. Ni
viện này được đặt dưới quyền giám đốc của ni sư Diệu
Hương. Tùng lâm này từ năm 1934 trở đi đã trở nên hưng
thịnh, và đã quy tụ trên dưới 100 ni sinh, trong số đó có
nhiều vị từ trong Nam và ngoài Bắc đến tham học.
Ni
sư Diệu Hương tên đời là Nguyễn Thị Kiều, sinh năm 1884
tại làng Dạ Lê Hạ, huyện Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên.
Hồi 16 tuổi bà được vua Thành Thái triệu vào cung, phong
làm mỵ tân. Năm 20 tuổi bà sinh hạ được một hoàng nữ
rất xinh đẹp. Nhưng đến năm 1915 khi vua Thành Thái bị đi
đày và hoàng nữ chết vì bệnh, bà liền xin xuất gia học
đạo với thiền sư Thanh Thái lúc ấy trú trì chùa Tường
Vân. Bà thụ đại giới năm 1924 tại giới đàn chùa Từ Hiếu.
Năm ấy bà được 40 tuổi.
Sau
khi thụ đại giới, bà tu học tại chùa Trúc Lâm cùng với
các ni sư Chơn Hương và Giác Hải dưới sự hướng dẫn của
ni sư Diên Trường. Năm 1928, ni viện Diệu Viên ở huyện Hương
thủy được thành lập, tự trưởng là ni sư Diệu Viên đã
thỉnh bà về lãnh đạo ni chúng ở đây. Bên cạnh chùa Diệu
Viên, một viện cô nhi được tạo lập lấy tên là Tịnh
Lạc.
Năm
1932, một tập thể ni chúng được thành lập tại chùa Từ
Đàm. Bà được mời về lãnh đạo sự tu học cho đại chúng.
Đến
năm 1934 ni viện Diệu Đức được thành lập, bà lại được
mời về trong chức vụ tọa chủ. Bà tiếp tục lãnh đạo
tùng lâm Diệu Đức mãi cho đến năm 1971 mới viên tịch.
Bà thọ được 88 tuổi. Đại diện của Giáo Hội Phật Giáo
Việt Nam Thống Nhất đã đưa tiễn bà bằng hai câu đối
sau đây được khắc vào cửa tháp:
Ni
sư Thể Yến, thượng túc của bà lên làm viện chủ ni viện
Diệu Đức. Ni sư Thể Yến tên đời là Tuyết Sơn, quê ở
Nghệ An, xuất gia tại chùa Diệu Viên dưới sự hướng dẫn
của bà từ năm 1930. trong số những danh ni đệ tử của ni
sư Diệu Hương còn có các ni sư Thể Quán, Thể Thanh, Thể
Tín, Thể Thuyền… vị nào cũng đảm trách những Phật sự
quan trọng trong ni bộ.
Những
ni sư hoạt động nhiều nhất trong lĩnh vực cứu tế xã hội
xuất thân từ ni viện Diệu Viên là Viên Minh, Thể Quán, Thể
Thanh và Cát Tường. Hoạt bát nhất trong các danh ni là ni sư
Diệu Không. Bà tên là Hồ Thị Hạnh, sinh năm 1905 tại làng
An Truyền, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên. Bà xuất gia năm
1933 tại chùa Trúc Lâm, theo học với thiền sư Giác Tiên,
pháp danh là Trừng Hảo. Bà thụ đại giới năm 1944 tại giới
đàn chùa Thiền Tôn do thiền sư Giác Nhiên chủ tọa. Bà đãtheo
học Phật học đường của Sơn Môn tại các chùa Trúc Lâm
và Tây Thiên.
Năm 1928, khi chưa xuất gia bà đã có công vận động xây cất ni viện Diệu Viên và nhà Tịnh Lạc cho trẻ mồ côi ở Hương Thủy. Năm 1932 cùng với các nữ cư sĩ Ưng Dinh, Ưng Bàng và một số Phật tử hữu tâm khác, bà cũng đã vận động mua đất tại thôn Bình An để thành lập chùa Diệu Đức. Bà cũng đã cùng các bạn lữ vận động yểm trợ cho ni chúng tu học tại chùa Từ Đàm, cho đến khi chùa này trở thành hội quán của hội An Nam Phật Học.
Trước
khi các tạp chí Viên Âm của hội Việt Nam Phật Học
và Liên Hoa của Giáo Hội Tăng Già Trung Việt ra đời,
tại Huế đã có đặc san Phật Giáo Văn Tập và tạp
chí Giác Ngộ. Đặc san Phật Giáo Văn Tập được
xuất bản lần đầu vào ngày Phật Đản 1947, do cư sĩ Tráng
Đinh chủ trương. Cư sĩ Tráng Đinh là một người có lòng
đối với nền văn học Phật giáo; ông đã liên lạc với
các cây bút tăng sĩ và cư sĩ hồi đó để đề nghị sáng
tác và đã đứng ra xuất bản văn tập này ba tháng một lần
với phương tiện tài chính do chính ông vận động. Phật
Giáo Văn Tập ra đời trước khi hội Việt Nam Phật Học
được thành lập. Đến năm 1949, ông vận động xin phép xuất
bản tạp chí Giác Ngộ, mời nhà văn Võ Đình Cường
làm chủ bút, còn mình thì đứng làm chủ nhiệm kiêm quản
lý. Tờ Viên Âm ra đời đầu năm 1950, do cư sĩ Chơn
An Lê Văn Định đứng làm chủ nhiệm, thiền sư Trí Quang
làm chủ bút, và cư sĩ Tôn Thất Tùng làm quản lý.
Viên
Âm chuyên về khảo cứu giáo lý, khác hẳn với Giác
Ngộ có tính cách văn nghệ và thời sự. Cộng tác với
Giác
Ngộ, ngoài Võ Đình Cường còn có Nguyễn Hữu Ba, Cao Khả
Chính, Nguyễn Khắc Ngữ, Tống Anh Nghị, Trương Tú, Trinh Tiên
và Lê Bối.
Viên
Âm là cơ quan chính thức của hội Việt Nam Phật Học;
thiền sư Trí Quang cũng đã viết trong tạp chí này với những
bút hiệu như Thích Kim Sơn và Thích Thuyền Minh. Các thiền
sư Thiện Siêu, Thiện Minh, Mật Nguyện và cư sĩ Chơn An đều
có cộng tác với tạp chí này.
Tạp
chíLiên Hoa cả Giáo Hội Tăng Già Trung Việt, được
xuất bản năm 1959, do thiền sư Đôn Hậu đứng làm chủ nhiệm
và thiền sư Đức Tâm đảm nhiệm trách vụ chủ bút. Tạp
chí này có sự cộng tác của nhiều học tăng đang du học
tại ngoại quốc. Ngoài phần giáo lý, tạp chí cũng đăng
nhiều bài có tính cách văn nghệ. Tạp chí này đình bản
vào năm 1966.
Tại
Đà Lạt, từ năm 1950 đã có tạp chí Hướng Thiện
do thiền sư Thiện Minh làm chủ nhiệm. Đến năm 1951, tạp
chí này đình bản. Một tạp chí khác ra đời lấy tên là
Liên
Hoa, do cư sĩ Huỳnh Văn Trọng chủ nhiệm. Tạp chí này
được một tổ chức Phật tử trí thức tên là Phật Giáo
Thiện Hữu trợ lực về phương diện tài chính. Trong tổ
chức này có những cư sĩ như Huỳnh Văn Trọng, Nguyễn Minh
Tâm, André Migot và Pierre Marti. Bác sĩ Migot đã gây nhiều chấn
động thế giới Công giáo vì tác phẩm Phật Giáo Với
Văn Minh Âu Tây, trong đó ông chủ trương nên để cho người
Á Đông theo tôn giáo của họ là Phật giáo và chấm dứt
truyền bá Cơ Đốc giáo trong xã hội của họ. Cư sĩ Pierre
Marti, pháp danh là Long Tử, đã từng diễn thuyết về Phật
giáo tại các chùa cao nguyên Trung Phần bằng tiếng Việt.
Ông là quản lý cho tập san Liên Hoa từ năm 1951 đến
1954. Chủ bút của tạp chí này là thiền sư Nhất Hạnh.
Thiền
sư Đôn Hậu, chủ nhiệm tạp chí Liên Hoa, sinh năm 1904
tại làng Xuân An, phủ Triệu Phong, Quảng Trị. Ông tên là
Diệp Thuần, xuất gia năm 19 tuổi tại chùa Tây Thiên, theo
học với thiền sư Tâm Tịnh. Ông là em đồng sư của thiền
sư Giác Tiên. Pháp danh của ông là Trừng Nguyện. Xuất gia
được một năm ông đã được thụ đại giới đàn Từ Hiếu
tổ chức năm 1923 do chính bản sư của ông làm hòa thượng
đàn đầu.
Ông
được học Phật với các thiền sư Huệ Pháp, Viên Thành,
Hồng Khê và Phước Huệ. Năm 25 tuổi, ông theo thiền sư Phước
Huệ vào chùa Thập Tháp ở Bình Định để học Phật trong
một năm. Sau đó ông trở ra Phật học đường Tây Thiên,
và tốt nghiệp năm 1936. Tư 1932, ông đã được mời làm giảng
sư hội An Nam Phật Học. Năm 1938 ông được mời làm giáo
sư cho Phật học đường và luật sư cho Sơn Môn Thừa Thiên.
Năm 1945, ông được ủy nhiệm trú trì chùa Linh Mụ và làm
hội trưởng hội An Nam Phật Học. Năm 1946, ông làm chủ tịch
Phật Giáo Liên Hiệp Trung Bộ. Đến năm 1947, ông bị quân
đội Pháp bắt giữ và tra tấn trong nhiều tuần lễ. Nếu
không có bà Từ Cung mẹ của vua Bảo Đại can thiệp thì ông
đã bị quân Pháp đưa ra xử bắn.
Năm 1951, Sơn Môn Tăng Già Trung Phần
mời ông giữ chức giám luật. Năm 1952, khi Giáo Hội Tăng
Già Toàn Quốc được thành lập tại Hà Nội, ông cũng được
mời giữ trách vụ Giám Luật. Ông làm chủ nhiệm tạp chí
Liên
Hoa từ 1959 đến 1966. Năm 1963 ông bị chính phủ Ngô Đình
Diệm giam giữ vì tham gia tích cực vào phong trào chống chính
sách kỳ thị tôn giáo của chính phủ này. Năm 1964, ông nhận
chức Chánh Đại Diện của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống
Nhất tại miền Vạn Hạnh. Năm 1975 ông được thỉnh vào
Hội Đồng Trưởng Lão của Giáo Hội và làm Chánh Thư ký
cho viện Tăng Thống Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất.
(*)Theo
câu này thì lúc làm bài thơ, cư sĩ Chơn An chỉ mới 66 tuổi.
Vậy có phải là năm 1958 không (N.H.C.)
|