|
Hội
Phật
Học Nam Việt được thành lập vào năm 1950 tại Sài Gòn
do sự vận động của cư sĩ Mai Thọ Truyền. Ban đầu, hội
đặt trụ sở tại chùa Khánh Hưng, và sau đó ít lâu, tại
chùa Phước Hòa. Bác sĩ Nguyễn Văn Khỏe, một cây cột trụ
của hội Lưỡng Xuyên Phật Học cũ đảm nhận trách vụ
hội trưởng. Ông Mai Thọ Truyền giữ trách vụ tổng thư
ký. Các thiền sư Quảng Minh và Nhật Liên đã triệt để
ủng hộ cho việc tổ chức hội Phật Học Nam Việt. Thiền
sư Quảng Minh được bầu làm hội trưởng của hội bắt
đầu từ năm 1952. Năm 1955, sau khi thiền sư Quảng Minh đi
Nhật du học, ông Mai Thọ Truyền giữ chức vụ hội trưởng.
Chức vụ này ông giữ cho đến năm 1973, khi ông mất. Hội
Phật Học Nam Việt được thành lập do nghị định của Thủ
Hiến Nam Việt ký ngày 19.9.1950. Bản tuyên cáo của hội có
nói đến nguyện vọng thống nhất các đoàn thể Phật giáo
trong nước. Bản tuyên cáo viết: "Đề xướng việc lập
hội Phật học này. Chúng tôi còn có cái thâm ý đi đến
chỗ Bắc Trung Nam sẽ bắt tay trên nguyên tắc cũng như trong
hành động. Sự thống nhất này đã trở nên cần thiết kể
từ ngày mồng 8 tháng Sáu dương lịch năm nay, là ngày Việt
Nam được chính thức làm hội viên hội Phật giáo quốc tế…"
Chùa
Xá Lợi trụ sở thứ ba và vĩnh viễn của hội Phật Học
Nam Việt được khởi công xây dựng năm 1956 tại số 89 đường
Bà Huyện Thanh Quang, Sài Gòn, và được hoàn thành hai năm
sau đó. Chùa được kiến trúc một cách mới mẻ, có tháp
chuông, chính điện, giảng đường, thư viện và tăng xá.
Năm 1963, chùa Xá Lợi biến thành căn cứ trung ương cho cuộc
tranh đấu của Phật giáo đồ chống lại chính quyền Ngô
Đình Diệm, và trở thành một ngôi chùa lịch sử.
Chánh
trí Mai Thọ Truyền là một trong những khuôn mặt Phật tử
cư sĩ lớn của thời đại. Ông sinh năm 1905 tại làng Long
Mỹ tỉnh Bến Tre, và đã học tại các trường trung học
Mỹ Tho và Chasseloup Laubat ở Sài Gòn. Ông thi đậu tri huyện
năm 1931 và đã tùng sự tại Sài Gòn, Trà vinh, Long Xuyên và
Sa Đéc. Năm 1945, sau Cách Mạng Tháng Tám, ông đã làm chủ
tịch Ủy Ban Quận Bộ Châu Thành Long Xuyên rồi trưởng phòng
hành chính Ủy Ban Hành Chính Tỉnh Bộ Long Xuyên.
Ông
về Sài Gòn năm 1947 và lần lượt giữ những chức vụ sau
đây: chánh văn phòng phủ Thủ Tướng của chính phủ Nguyễn
Văn Xuân (Hà Nội), chánh văn phòng bộ kinh tế, giám đốc
hành chính sự vụ bộ Ngoại Giao, đổng lý văn phòng bộ
Nội Vụ của chính phủ Nguyễn Nam Long, đổng lý văn phòng
Phủ Thủ Hiến Nam Việt và phó đổng lý văn phòng Phủ Thủ
Tướng của chính phủ Bửu Lộc. Năm 1955 ông đổi sang ngạch
thanh tra hành chính và tài chính và đến năm 1960 về hưu thời
chính phủ Ngô Đình Diệm. Sau cách mạng 1963, ông tham dự
Hội Đồng Nhân Sĩ trong chính phủ Dương Văn Minh, và đến
năm 1967 ông ứng cử phó tổng thống chung liên danh với ông
Trần Văn Hương, năm 1968, ông giữ chức quốc vụ khanh kiêm
viện trưởng Giám Sát Viện trong chính phủ Trần Văn Hương,
rồi đổi sang chức vụ Quốc Vụ Khanh đặc trách văn hóa
cho đến năm ông mất (1973).
Cũng
như cư sĩ Lê Đình Thám, ông ăn chay trường từ ngày thọ
tam quy ngũ giới và làm phật sự không biết mệt mỏi. Hội
Phật Học Nam Việt đã thành lập được tới 40 tỉnh hội
và chi hội khắp miền Nam. Tạp chí Từ Quang của hội
mà ông trực tiếp trong nom từ 1951 đã ra được 242 số cho
đến ngày ông mất. Những trước tác của ông gồm có:
Tâm
Và Tánh (1950)
Ý
Nghĩa Niết Bàn (1962)
Một
Đời Sống Vị Tha (1962)
Tâm Kinh Việt Giải (1962) Le Bouddhisme Au Viet Nam (1962) Pháp Hoa Huyền Nghĩa (1964) Địa Tạng Mật Nghĩa (1965) Tác phẩm đầu (Tâm và Tánh) đã được nhà Đuốc Tuệ ở Hà Nội xuất bản; những tác phẩm còn lại đều được Hội Phật Học Nam Việt ấn hành. Ngoài trách vụ hội trưởng hội Phật Học Nam Việt, ông Mai Thọ Truyền đã từng giữ trách vụ tổng thư ký của Ủy Ban Liên Phái Bảo Vệ Phật Giáo Việt Nam từ 1959 đến năm 1962. Năm 1963 ông giữ trách vụ tổng thư ký của Ủy Ban Liên Phái Bảo Vệ Phật Giáo chống lại chính quyền Ngô Đình Diệm. Trách vụ này đã được ông thi hành một cách xuất sắc. Năm 1964 ông được bầu làm phó viện trưởng Viện Hóa Đạo của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất, nhưng vì bất đồng ý kiến về hệ thống tổ chức của Giáo Hội, chỉ sau đó một tháng, ông rút lui về cương vị Hội trưởng hội Phật Học Nam Việt. Trong bản tuyên cáo thành lập hội Phật Học Nam Việt có chủ ý muốn thành lập một Phật học đường lớn để đào tạo tăng tài, nhưng công việc này chưa bao giời được hội thực hiện, có thể đây là vì bên cạnh hội Phật Học Nam Việt đã có Giáo Hội Tăng Già Nam Việt. Nhưng tạp chí Từ Quang đã là một đóng góp không nhỏ cho công việc phổ biến Phật học ở Sài Gòn và các tỉnh. Tạp chí này đã được chư tăng ở Phật học đường Nam Việt nâng đỡ và đóng góp khá nhiều về phương diện biên tập, nhất là trong những năm đầu.
Cách
thức làm việc của cơ sở Chánh Trí có nhiều điểm tương
tự với cách thức làm việc của cư sĩ Tâm Minh. Nếu lễ
Phật Đản năm 1935 tổ chức ở Huế đã bắt dư luận toàn
quốc nói đến phong trào phục hưng Phật học thì cuộc diễn
hành rước Xá Lợi Phật tại Sài Gòn năm 1952 cũng đã khiến
cho quốc dân chú ý đến sự có mặt của hội Phật Học
Nam Việt và tới phong trào Phật giáo. Cuộc diễn hành rước
Xá Lợi này được tổ chức vào ngày 13.9.1952, khi phái đoàn
Phật giáo Tích Lan trên đường đi dự Đại Hội Phật Giáo
Thế Giới kỳ II tại Tokyo, ghé tại Sài Gòn và có thỉnh
theo một Xá Lợi của Phật và do đó cuộc diễn hành đã
trở thành một cuộc tập hợp lớn lao chưa từng có của
Phật tử tại Sài Gòn cho tới ngày hôm ấy. Xá Lợi Phật
đã được rước từ hải cảng Sài Gòn, đi qua nhiều đại
lộ, về tới Trường Đại Học Bình Dân (Université Populaire)
và tôn trí nơi một bàn thờ tại đây trong 24 giờ đồng
hồ. Hàng vạn người đã chen chúc tới suốt trong thời gian
ấy để được chiêm bái Xá Lợi. Trong cuộc diễn hành, cờ
Phật giáo thế giới đã được trương ra, và đây là lần
đầu tiên quần chúng thấy được lá cờ năm sắc ấy. Cũng
là lần đầu tiên quần chúng tại Sài Gòn được thấy những
đoàn thể thanh thiếu niên của Gia Đình Phật Tử trong sắc
phục và cờ hiệu của họ. Hai bên đường có những Phật
tử quỳ xuống khi thấy Xá Lợi Phật cũng như là thấy Phật.
Báo chí toàn quốc nói tới cuộc diễu hành này, và Phật
tử các nơi cho rằng dân chúng Sài Gòn đã có duyên phước
lớn lắm mới được trực tiếp chiêm bái Xá Lợi.
Mai
Thọ Truyền đã viết về cuộc diễn hành rước Xá Lợi như
sau: "Cuộc biểu diễn êm ái ấy về sau đã gây được nhiều
ảnh hưởng hay. Từ Bắc chí Nam, phong trào chấn hưng được
mọi nơi tiếp đón nồng hậu, khiến cho phạm vi hoạt động
càng ngày càng bành trướng, lấn áp một phần nào uy thế
của những chi phái tạp nhạp"(113).
"Những
chi phái tạp nhạp" đây có lẽ là những tổ chức Phật
giáo nhỏ đang cạnh tranh với hội Phật Học Nam Việt.
Cộng
tác với Giáo Hội Tăng Già Nam Việt, hội Phật Học Nam Việt
cũng đã tổ chức những cuộc diễn hành lớn vào những ngày
lễ Phật Đản tại thủ đô Sài Gòn, sau khi chính phủ Ngô
Đình Diệm ra lệnh loại ngày Phật Đản ra khỏi những ngày
lễ chính thức của quốc gia. Cùng với những cuộc diễn
hành này muốn gián tiếp nói lên cho chính phủ Ngô Đình Diệm
thấy phần phản kháng của Phật tử Việt Nam đối với chính
sách kỳ thị tôn giáo của chính phủ. Với tư cách quốc
vụ khanh đặc trách văn hóa, cư sĩ Chánh Trí từ năm 1968
trở đi đã hoàn thành được thư viện quốc gia tân lập,
xúc tiến việc thiết lập Văn Khố Gia và Nhà Văn Hóa. Ông
cũng đã đẩy mạnh công tác của Ủy Ban Điền Chế Văn Tự,
lập một Ủy Ban Dịch Thuật mới mà ông đứng làm chủ tịch,
thành lập chi nhánh Bảo Tồn Cổ Tích Huế.
Lấy
con mắt văn hóa nhìn vấn đề tam giáo hòa hợp. Chánh Trí
viết:
"Đứng về
mặt thực hành, phải nhìn nhận rằng chủ trương tam giáo
quy nhất rất hợp lý, vì bề ngoài là hòa hợp mà bề trong
có chia, và đây chỉ là chia phạm vi hoạt động và ảnh hưởng
thế nào cho cân xứng với tính cách của mỗi đạo. Đại
khái, Nho giáo thì lo về nhân sự, tu về thế nào để đi
đến chỗ trị bình, còn Phật giáo và Đạo giáo thì lo giải
quyết những vấn đề cao siêu hơn".
"Đứng
về mặt thuần túy mà xét, sự xáo trộn ba đạo như vừa
nói thật không phải là một việc đáng thương, nhưng nếu
đứng về kết quả mà luận thì thấy rằng nhờ có sự xáo
trộn đó mà lòng người dường như bớt xao xuyến lo âu,
tính tình phong tục mới được tốt đẹp, chưa kể cái việc
giúp cho quảng đại quần chúng thâm nhiễm được đôi phần
những giáo lý phổ thông mà mỗi đạo cần phải truyền bá
vì sự lợi ích riêng của chính mình."(114).
Cư
sĩ Chánh Trí có một cái nhìn trung dung về hai khuynh hướng
tự lực và tha lực trong Phật giáo, ông cho rằng sự nhiếp
thọ và cứu độ của chư Phật và chư Bồ Tát là có thực,
nhưng con người phải có nỗ lực thì sự nhiếp thọ và cứu
độ mới trở thành hiện thực, như tuyết có sạch, trăng
có in. Ông viết: "Chư Phật và Bồ Tát vì lòng đại từ
đại bi luôn luôn sẵn sàng hộ trì cứu độ, nhưng các ngài
chỉ cứu độ, hộ trì những ai thật sự muốn được nâng
đỡ để giải thoát mà thôi. Biển khổ chơi vơi, người
đang chìm nổi ít ra cũng phải cố với nắm lấy bàn tay tế
độ thì họa may vấn đề cứu vớt mới thành. Ngục tù khốn
khổ, các cửa dù có mở tung mà phạm nhân không chịu đi
ra thì cũng không biết làm thế nào! Nói một cách khác, có
sự mong muốn và cố gắng của người tự biết lâm nguy,
người muốn cứu mới làm nên việc. Huống chi sự cứu độ
hộ trì ở đây thuộc về tâm linh, thì sự cảm thông trên
phương diện tâm linh là điều cần yếu. Tuyết có sạch,
trăng mới in; tâm ta có trong, tâm Phật mới rọi vào được.
Nêu tâm ta như đống tuyết bị bụi đất phủ dày thì đừng
mong mặt trăng Phật in lên và làm cho khối tuyết ánh sáng.
Thế thì tự lực vốn tối khẩn yếu, tối cần thiết"(116).
Ông
lại viết: "Tuy pháp môn niệm Phật cầu vãng sanh được
trình bày như con đường "dễ đi" nhờ có sức cứu độ
của Phật, thật ra không phải dễ hoàn toàn đâu và muốn
đi đến đích cũng chẳng phải hoàn toàn ỷ lại vào tha lực
mà được đâu. Dễ là đối với con đường của Thiền Tông
là con đường mà hành giả phải tự cường tự lực,nhưng
niệm Phật cho đến nhất tâm bất loạn, cho đến được
"tam muội" hay chánh định, hành giả cũng phải nỗ lực
rất nhiều, phải phấn đấu với chướng ngại ráo riết.
Cái tha lực nhiếp thọ của Phật hình như chỉ được đưa
ra với dụng tâm khuyến khích hành giả, để hành giả vững
tâm mà trỗi bước"(117)
Chánh Trí cho
rằng sự vãng sinh về Cực Lạc của Phật giáo hoàn toàn
không giống với sự sanh lên Thiên Đường của Cơ Đốc giáo.
Mục đích về Cực Lạc là để gần Phật mà tu hành cho tới
bậc "bất thối chuyển" chứ không phải để hưởng những
sự sung sướng của một cõi Thiên Đường. Bản chất và
mục đích của niệm Phật là sự tịnh tâm, và một khi tâm
đã định và tịnh thì trí tuệ và hào quang phát sinh. Ông
viết:
"Trong
kinh Tịnh Độ có nói: lúc lâm chung mà ai chuyên tâm
niệm Phật nhất tâm bất loạn thì Phật A Di Đà và Quan Âm
Thế Chí đến rước về Cực lạc. Có người nghĩ rằng đây
là một lối nói tượng trưng. Lúc lâm chung mà giữ tâm định
được vào niệm Phật thì tâm người ấy đã "tịnh hóa"
hoàn toàn rồi, bức màn vô minh đã bị xé tan, do đó nguồn
ánh sáng bên trong tự tánh Di Đà phát huy hực hỡ. Nguồn
ánh sáng ấy là nguồn ánh sáng vô biên của vũ trụ tiêu
biểu bởi Phật A Di Đà đồng một thể tánh, cho nên khi người
mạng chung thấy ánh sáng ngập trời trước mắt mình, ngỡ
là Phật A Di Đà của từ phương Tây đến tiếp độ, không
dè đó là Phật A Di Đà của tự tánh mình hiển hiện ra"(118).
Đó
là quan niệm "Di Đà tự tính, tịnh độ duy tâm". Có lẽ
cư sĩ Chánh Trí còn e ngại chút ít khi nói lên những nhận
xét trên cho nên ông mới thêm bốn chữ "có người nghĩ
rằng". Rất có thể cái người nghĩ rằng ấy là chính ông
vậy. Cư sĩ Chánh Trí là một người thông minh và có tài
suy luận diễn dịch. Các tác phẩm Địa Tạng Mật Nghĩa
và Pháp Hoa Huyền Nghĩa của ông, nhờ tài suy luận diễn
dịch này, đã chứa được nhiều điều nhận xét khá đặc
thù có thể gây nhiều hứng thú cho người đọc. Ông lại
là một người giỏi về hành chính và có địa vị trong xã
hội, cho nên chỉ trong một khoảng thời gian ngắn ông đã
đặt được cư sĩ cho hội Phật Học Nam Việt khắp các tỉnh
miền Nam. Ông đã làm hội trưởng hội Phật Học Nam Việt
suốt từ năm 1955 đến năm 1973. Điều đáng tiếc là ông
đã không đem được tài tổ chức hành chính của ông mà
xây dựng cho Giáo Hội này được thành lập vào năm 1964.
Cố nhiên một giáo hội mới được thành lập như Giáo Hội
Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất phải có những khuyết điểm
về mặt tổ chức và ông có quyền chỉ trích những khuyết
điểm đó. Tuy nhiên, ông chỉ có thể xây dựng được cho
Giáo Hội bằng cách đứng bên cạnh những người tăng sĩ
và cư sĩ đã từng là đồng chí của ông trong suốt mười
ba năm trời làm Phật sự, nghĩa là đứng hẳn vào trong Giáo
Hội. Đằng này ông đã để hội Phật Học Nam Việt đứng
riêng ra, và do đó ông đã không có cơ hội nào để trực
tiếp xây dựng cho Giáo Hội cả. Từ năm 1964 trở đi, hội
Phật Học Nam Việt trở thành một tập đoàn lẻ loi, không
có tăng già lãnh đạo, cho tới khi ông mất.
Tuy vậy, cư sĩ Chánh Trí khi mất đi đã để lại thương tiếc cho rất nhiều Phật tử, tăng sĩ cũng như cư sĩ. Nữ sĩ Mộng Tuyết, ngày xưa từng là học trò của ông, đã đi câu đối:
và ghi ở dưới: "Sương phụ Đông
Hồ, Mộng Tuyết, học trò cũ của thầy nơi Hà Tiên, luôn
luôn ghi nhớ ơn thầy".
Thi
sĩ Vũ Hoàng Chương đã viết những dòng cảm niệm như sau:
Trong thập niên đầu thế kỷTrong các cầu đối điếu có đôi câu đối sau đây của cư sĩ Lý Học:
dịch:
|
|