Việt Nam Phật Giáo Sử Luận
Nguyễn Lang
Nhà Xuất Bản Văn Học - Hà Nội 1979

Mục Lục
Tập Một
Tập Hai
Tập Ba
TẬP III
 

CHƯƠNG XXVIII

HỘI AN NAM PHẬT HỌC Ở TRUNG KỲ

- 2 -

 
THIỀN SƯ HUỆ PHÁP
 
Thiền sư Huệ Pháp(66), giáo thọ của Giác Tiên, là tọa chủ chùa Thiên Hưng. Năm 1920, khi ông khai giảng lớp Phật pháp cao học tại đây, thiền sư Giác Tiên, không những đã tới tham học mà lại còn đem các vị đệ tử của mình tới dự tính nữa. Thiền sư Huệ Pháp, người họ Đinh, sinh năm 1871 tại làng Trung Kiên phủ Triệu Phong tỉnh Quảng Trị. Ông xuất gia tại chùa Từ Hiếu, làm đệ tử của thiền sư Cương Kỷ. Năm 21 tuổi, thụ Sa di giới, ông được thiền sư đặt pháp danh là Thanh Tú, pháp tự là Phong Nhiêu. Ông thụ giới Cụ Túc tại Giới Đàn tổ chức tại chùa Báo Quốc năm 1894 do thiền sư Lương Duyên tổ chức. Năm sau, ông được đắc pháp với thiền sư Lương Duyên, hiệu là Huệ Pháp. Năm 1896, môn đồ chùa Thiên Hưng đến Từ Hiếu đảnh lễ thiền sư Cương Kỷ để xin rước Huệ Pháp về trú trì chùa Thiên Hưng.
Ông hành đạo rất tinh tấn. Mỗi năm ông an cư hai lần, vào mùa Hạ và mùa Đông. Ông thường mở những lớp giảng kinh cho những tăng sĩ tới cầu học: kinh Pháp Hoa, kinh Lăng Nghiêm, kinh Phạm Võng, luật Tứ Phần v.v… Năm 1910, ông được mời làm đệ tam tôn chứng trong giới đàn chùa Phúc Lâm ở Quảng Nam do thiền sư Vĩnh Gia làm chủ tọa. Năm 1911 ông khởi công trùng tu chùa Thiên Hưng. Vua Khải Định ban giới đao độ điệp cho ông vào năm 1919 và sắc cho ông làm trú trì chùa Diệu Đế. Năm 1924, ông được mời làm giáo thọ cho toàn thể giới tử đại giới đàn Từ Hiếu. Năm 1926 ông được ban chức Tăng Cương chùa Diệu Đế. Ông tự thiêu năm 1927 tại chùa Thiên Hưng, hưởng thọ 56 tuổi. Tháp ông được xây tại chùa Từ Hiếu và đệ tử của ông là thiền sư Quảng Tu kế thế trú trì chùa Thiên Hưng. Bài văn khắc trong bia dựng ở tháp ông là do thiền sư Viên Thành thảo. Viên Thành đã viết:
"Đại sư thiệp liệp giáo pháp; tông chỉ và lý thuyết đều tinh, chuyên tâm nghiên cứu nghĩa lý chỉ quán phái Thiên Thai, lại thường khuyên người tu Tịnh độ để làm con đường giải thoát mau chóng… Đại sư tùy cơ ứng đối thích hợp như sữa và nước hòa nhau, cơ duyên hóa độ rất nhiều không sao thuật hết…"
Đối với Huệ Pháp, Viên Thành làm một pháp điệt. Ông xem Huệ Pháp như thầy của ông và giao tình giữa hai người suốt mời mấy năm rất là mật thiết. Lúc Huệ Pháp viên tịch, Viên Thành rất thương tiếc. Ông đi một đôi câu đối như sau: 
Bất tuệ nhẫn vị nhân vị nhẫn xả thiên tiên, tri kỷ lệ thành Hồng hạnh vũ;
Đại khai sĩ hữu duyên quy Phật tảo, cố sơn mộng đoạn Bích đào thiên.
Dịch: 
Kẻ hậu sinh chưa nỡ bỏ thân ngay, tri kỷ khóc thành mưa Hồng hạnh: 

Bực khai sĩ có duyên về Phật sớm, non xưa mộng thấy chốn Đào hoa.

Bài minh của Viên Thành viết ở cuối bia như sau:

Giác Hoàng ứng thế thủy vi ngôn
Bàng bạc nhật nguyệt, châu kiền khôn
Trí giả tài biện cùng hóa nguyên
Thì vi diễn thuyết khai mê hôn.
Hằng sa giáo điển tuy vân vân,
Diệu nhập Thiên Thai Chỉ Quán môn.
Đại sư cận xuất dương thanh phân
Chí kiên, khí trực, mạo thả ôn.
Thiếu nhi mẫn ngộ, lão ích cần.
Hoặc sám hoặc giảng vong bô hân

Trung hưng giáo quản chân điệt quần

Tung hoành ngôn luận diệu nhập thần.

Di văn xán nhượckhả ngôn lân.

Từ thuần lý chính đạo bất phiền,

Hà nhĩ học đồ nhật tuấn bôn.

Ký tư chính giác tiêu ba tuần.

Hạnh cao danh vọng thượng quốc văn.

Thiên tử khiển sứ lai trung hôn.

Triều dã huân thích cố sở hân.

Điệp mông cung tứ hồi thiên ân

Tri thân biến điệt như phù vân

Thệ dũng khí xả cam xu phần.

Tông thuyết kiêm thông, thùy kỳ nhân

Sư tâm liễu liễu sở túc đôn,

Pháp thân vô tướng, ninh phi chân?

Kim tuy vân vong, ninh phi tồn?

Hậu thế tử tôn kỳ phồn phồn.

Khâm sư đạo hạnh quan tư văn.

Dịch:

Giác hoằng ứng thế mở lời mầu

Bàng bạc trăng sao nghĩa thẳm sâu
Kẻ trí biện tài đem giáo hóa
Thuyết pháp cứu độ đời thương đau
Giáo điển tuy nhiều đến vô lượng
Thiên Thai Chỉ Quán riêng tâm đầu
Đại sư xuất thân dòng cao khiết
Chí bền, lòng thẳng, dáng thanh tao
Tuổi thơ nhanh nhẹn, lớn cần mẫn
Thiền sàng pháp tọa không hề xao.

Trùng hưng giáo quán trong thiên hạ

Ngôin luận tung hoành như trời cao

Văn từ sáng rỡ không khúc mắc

Giản lược lời ngay ý nghĩa sâu

Học đồ bốn phương về tụ hội

Đuốc tuệ soi đường, ma chạy mau.

Nhà vua tôn sùng sai sứ thỉnh

Trong triều ngoài quận thảy mong cầu

Biết thân bèo bọt như mây nổi

Phó thác hình hài ngọn lửa cao.

Thiền giáo hai bên đều nắm vững

Tâm tư sáng rỡ bậc anh hào

Pháp thân không tướng mà chân thực

Nói mất mà còn muôn đời sau

Cháu con sau này như có nhớ

Tìm tới bia này đọc mấy câu.
 
 
 
 

QUỐC SƯ PHƯỚC HUỆ
Thiền sư Phước Huệ tên là Nguyễn Tấn Giao, sinh năm 1869 tại làng Nhơn Thành, Bình Định, xuất gia năm 1881 tại chùa Thập Tháp dưới sự hướng dẫn của thiền sư Chí Tịnh. Ông lại được theo học với thiền sư Châu Long chùa Tịnh Lâm, Phù Cát, và thiền sư Luật Truyền tại chùa Từ Quang ở Đá Trắng. Ông thọ đại giới năm 1889 và đắc pháp năm 1892 với thiền sư Luật Truyền. Năm 1894, ông làm trú trì chùa Phổ Quang ở huyện Tuy Phước. Năm 1901 ông được triều đình ban cho giới đao độ điệp làm Tăng Cương cho chùa Thập Tháp. Năm 1908 ông được mời ra hoàng cung giảng đạo đồng thời cũng để khai một khóa giảng kinh tại chùa Trúc Lâm. Các vua Thành Thái, Duy Tân và Khải Định đều có mời ông vào cung giảng đạo. Vì vậy ông được tôn xưng là quốc sư.
Năm 1920 ông tổ chức các lớp tăng học tại hai chùa Thập Tháp và Long Khánh. Từ năm 1930 trở đi, theo lời thỉnh cầu của thiền sư Giác Tiên, năm nào ông cũng ra Huế giảng dạy. Năm 1938 ông lại được mời làm chủ giảng Phật học đường Long Khánh ở Quy Nhơn.
Tại huế, ngoài các lớp cao học tại Trúc Lâm, ông còn dạy những lớp cấp trung học tại Tường Vân và Tây Thiên. Phần lớn những giáo sư và giảng sư hoạt động từ năm 1938 trở đi đều có thụ giáo với ông trong số đó có nhiều vụ gốc từ Nam Kỳ.
Năm 1934, ông có đề tựa cho sách Việt Nam Phật Giáo Sử Lược của thiền sư Mật Thể. Bài tựa này được viết bằng Hán văn tại chùa Thập Tháp. Khả năng giáo hóa của Phước Huệ rất vĩ đại, vì vậy người đương thời đã tặng ông mỹ hiệu "Phật pháp thiên lý câu" nghĩa là con ngựa ngàn dặm của Phật pháp". Ông là tổ khai sinh chùa Phước Long tại Phú Phong; thiền sư Trí Diệu, đệ tử của ông là trú trì chùa này. Ông tịch năm 1945 tại chùa Thập Tháp. Đệ tử xuất sắc nhất của ông là thiền sư Huệ Chiếu, được ông ủy nhiệm kế thế trú trì chùa Thập Tháp. Thiền sư Huệ Chiếu tịch năm 1965 và trao trách nhiệm cho thiền sư Kế Châu.
THIỀN SƯ PHỔ HUỆ
Thiền sư Phổ Huệ(68) trú trì chùa Tịnh Lâm ở Bình Định cũng là một ngôi sao rất sáng của Phật giáo thời ấy. Thiền sư là người họ Trần, sinh năm 1870 tại làng Nhơn Thành tỉnh Bình Định. Ông xuất gia năm 1882 tại chùa Châu Long và tu học dưới sự hướng dẫn của thiền sư Từ Mẫn. Ông cũng đã được học Phật với thiền sư Luật Truyền (Pháp Chuyên), chùa Từ Quang, ở Phú Yên. Cũng như thiền sư Phước Huệ, ông đã từng được triệu vào hoàng cung thuyết pháp. Ông là khai tổ chùa Bảo Phong. Ông tịch năm 1931. Cao đệ của ông là thiền sư Huyền Giác kế trú trì tổ đình Tịnh Lâm rất thịnh vượng, tiếng tăm vang cả Trung Kỳ. Năm 1901 thiền sư Viên Thành, hồi ấy còn nhỏ tuổivà còn ở chùa Ba La Mật, đã được gặp thiền sư Phổ Huệ tại đại giới đàn Phú Yên và rát lấy làm cảm phục về kiên trúc và đức độ của vị cao tăng này. Ước ao được thân cận mà không thỏa nguyện, Viên thành có làm một bài kệ sau đây, gửi cho Phổ Huệ:
Bình bát truy tùy dĩ hữu niên
Đạo năng thâm khế diệc tiền duyên
Vân quang thuyết pháp hoa ưng trụy
Quý phạp Tô Tuân chí học kiên.
Dịch:
Y bát bên mình trọn mấy niên
Đạo tinh thâm áo cũng tiền duyên
Vân Quang thuyết pháp hoa rơi rụng
Thẹn với Tô Tuân chí học bền.
Khoảng năm 1926, thiền sư Phổ Huệ có viết thư khen ngợi thiền sư Viên Thành về bài bạt này mà ông này đề trong ấn bản kinh Pháp Bảo Đàn ấn hành tại Huế năm 1925. Cảm động vì lá thư này, Viên Thành liền gửi vào hai bài kệ do ông sáng tác để trình bày kiến giải mình, để cầu thiền sư Phổ Huệ ấn chứng. Hai bài như sau:
Tham thiền trực hạ liễu căn nguyên
Thánh giải phàm tình lưỡng bất tồn
Đại đạo khởi tùng tâm ngoại đắc?
Yếu giao nhất niệm tuyệt phan viên.
Sơn cùng thủy tận chuyển Thân lai
Bức đắc kim cương chính nhãn khai
Vạn tượng từng trung thân độc lộ
Niết bàn sinh tử tuyệt an bài.
Dịch:

Tham cứu cho lên tột cội nguồn

Còn đâu ai thánh với ai phàm?
Ngòai tâm, đạo lớn tìm đâu thấy?
Nhất niệm chuyên trì dứt vạn duyên.
Cùng non tột nước gửi thân về
Miễn được kim cương mở mắt kia
Vạn tượng bao la thân hiển lộ
Niết bàn sinh tử có hề chi?
Phổ Huệ có làm nhiều thơ nhưng hiện nay chỉ mới sưu tập được bài ông là để tặng thiền sư Chí Thành. Xin xem bài này ở phần nói về thiền sư Chí Thành ở Chương XXVII

 
THIỀN SƯ VIÊN THÀNH
và thi phẩm Lược Ước Tùng Sao
Thiền sư Viên Thành như đã nói trên là một thi sĩ nổi tiếng. Ông là bạn thiết của thiền sư Giác Tiên, tên là Công Tôn Hoài Trấp, sinh năm 1879 ở Thừa Thiên, Ông xuất gia năm 1895 hồi 16 tuổi, tại chùa Ba La Mật và học với Thiền sư Viên Giác cho đến khi thiền sư mất vào năm 1900(69). Năm 1901, ông thọ đại giới đàn tại giới đàn Phú Yên. Tại giới đàn này ông được đậu đầu trong các giới tử. Ông làm một bài văn tạ ơn hội đồng giám khảo bằng Hán văn, được các vị trong hội đồng khen ngợi và thưởng cho một bộ kinh Lăng Già Tâm Ấn, một số y và một bình bác.
Chùa Ba La Mật là của gia đình Nguyễn Khoa lập nên, cảm thấy không được thoải mái ở đây, năm 1923 ông lên lập chùa Tra Am gần tháp thiền sư Viên Giác, thuộc về thôn An Cựu. Chùa chỉ là một thảo am vách đất nhưng rất đẹp và biểu hiện được tâm hồn yêu nghệ thuật của Viên Thành. Những cội mai và khóm trúc ông trồng được phối hợp với những tảng đá gánh từ trên núi Ngự Phong về. Ông đặt tên dòng suối nhỏ chảy qua trước chùa là Tẩy Bát Lưu và chiếc cầu nhỏ bắc qua suối là Lược Ước Kiều. Tên chùa là Tra Am và là nơi đọc sách là Ngọa Vân Khối. Chùa đẹp và giản dị khiến cho thượng thư bộ kinh tế là Nguyễn Khoa Kỳ một hôm đến thăm đã để lại một bài thơ sau đây:

Nhịp cầu Lược Ước bắc sang khe

Một mái am tranh gió bốn bề
Cúc nở xuê xoang tuồng nệm gấm
Dây leo dỏng dảnh bức màn the
Ngồi xem nước chảy đôi ghềnh đá
Đứng đợi trăng lên mấy cụm tre.
Cảnh có, người vui, càng rốn lại
Mặt trời khuất núi vẫn chưa về.
Tiêu dấu Nguyễn Bá Trác, hồi đó đang trông nom phần Hán văn cho tạp chí Nam Phong, cũng đã viết bài thơ sau đây về Tra Am:
Lộ chuyển thôn khê tăng viện thâm
Ngọ chung thanh đậu trúc kiều âm
Chủ nhân tọa định tây song lý
Ly điểu đình hoa chứng đạo tâm.
Vũ Hoàng Chương dịch như sau: 

Bóng gợn cầu tre nhịp ngọ chung

Âm u tăng viện lối đi vòng
Chủ nhân ngồi nhập thiền bên cửa
Hoa nở chim kêu chứng tỏ lòng
Ông thường giao thiệp thân mật với các thiền sư Tâm Tịnh, Huệ Pháp, Tịnh Hạnh, Giác Tiên, cùng các văn thi sĩ như Nguyễn Bá Trạc, Nguyễn Cao Tiêu, Nguyễn Thượng Hiền, Phan Khôi, Lê Thiện Trai, Ưng Bình, Nguyễn Khoa Tân v.v…(70) Năm 1918, Phan Khôi có đưa Phạm Quỳnh lên chùa Ba La Mật để thăm Viên Thành. 
Sau đó Phạm Quỳnh đã viết trong báo Nam Phong:
"Cao Tăng hiệu là Viên Thành Thượng Nhân, trú trì chùa Ba La Mật, làng Nam Phổ, cách Huế bốn năm mươi cây lô mét. Nhờ có ông bạn giới thiệu tôi mới biết được là thượng nhân, thực là cảm phục tư cách phong nhã, tư tưởng cao thượng của người… Bước chân vào trong tinh xá, tưởng như nơi văn phòng của nhà thi nhân tao khách nào. Không phải do bày biện đẹp không phải là cách trang sức khéo, nhưng bởi cái khí vị riêng của nó phảng phất ở trong cái phòng ấy, khiến người khách chơi biết ngay ông chủ nhân là người phong nhã tài tình. Mà thượng nhân quả là người tài tình phong nhã thật.
"Cái tài tình của Viên Thành Thượng Nhân thì không phải tìm đâu xa; cứ nghe ngay câu chuyện người nói cũng đủ biết; mỗi nhời như nhả ngọc phun châu, mà tưởng cứ tự nhiên thành bài thơ ứng khẩu vậy, người thơ chữ đã tuyệt bút mà thơ nôm cũng rất hay". 
Thơ văn chữ Hán của thiền sư Viên Thành một phần được giữ lại trong tác phẩm Lược Ước Tùng Sao của ông. Tác phẩm này chỉ giữ được hai bài thơ Nôm. Ông Nguyễn Văn Thoa cho biết đã sưu tầm lại được khoảng ba mươi bài dưới các thể lục bát, song thất lục bát, hát nói và Đường luật(71)

Lược Ước Tùng Sao sao chép thơ từ, câu đối, bi ký do Viên Thành và các thân hữu sáng tác từ lúc ông còn ở Ba La Mật cho đến Tra Am. Riêng về thơ có gần bảy mươi bài bằng chữ Hán. Tác phẩm này, tuy chưa được in lần nào, nhưng đã được chính tác giả duyệt lại và chữa những chỗ viết sai. 

Sau đây ta duyệt qua ít bài thơ của ông. Trước hết là ba bài thơ chữ Hán: 

1- Sơ lâm vũ quá tịch dương thì

Khê bạn hoành tương trúc dịch xuy
Nhất khúc tự ngu sơn thủy lục
Thử tình bất dữ bạch vân tri.
Bửu Cầm dịch:

Mưa tạnh rừng thưa lúc bóng tà

Bên khe tiếng sáo vẳng đưa xa
Vui thay một khúc cùng non nước
Tình nọ mây kia dễ biết ta.
2. Tọa ủng quần phong phú bạch vân
Oanh đề thâm cốc bất tri xuân
Nham tiền hoa vũ tân phân lạc
Ngọ mộng sơ hồi thúc cổ nhân
Dịch: 

Nơi chốn non cao phủ bạch vân

Tiếng oanh hang vắng nhắc mùa Xuân
Hoa trên sườn núi thi nhau rụng
Tỉnh giấc trưa rồi nhận cố nhân(72)
3. Tạc tiêu thanh tại thụ gian đa
Hạc lãnh sơn không nại nhĩ hà
Nhật mộ tiêu diêu vu giáp vũ
Thụ phong niễu niễu Động Đinh ba
Chi dư cổ bách tam phân thúy
Vô phục sương phong nhị nguyệt hoa
Quái để Lan Đài bi Tống Ngọc
Bất như lưu khứ nhậm thùy tha
Vũ Hoàng Chương dịch: 

Rì rào cây vẳng tiếng đêm qua

Nghe lạnh đồi không chiếc hạc già
Vu Giáp chiều buông mưa lất phất
Động Đình thu gợn sóng bao la
Tùng khô chỉ sót đôi phần lá
Bàng rợp đâu tìm một tán hoa
Lạ nỗi đau lòng chi Tống Ngọc,
Còn hay mất hãy mặc trời xa.
Sau đây là một vài bài thơ Nôm: 

1- Mai tĩnh, song thanh, lúc ngớt mưa

Mành tương phảng phất án sen đưa
Tiếng chuông Thiên Mụ canh hầu sáng
Giấc mộng hoàng lương đã tỉnh chưa?
2- Lững thững bên trời ngọn ráng thưa
Dặng bờ thu thảo ngớt cơn mưa
Rêu xanh đá mọc nhìn đường cũ,
Khói biếc thành xây tưởng dấu xưa
Mây phủ nhịp cầu sen ẩn ước
Cây lồng bóng nước cảnh thừa ưa
Khách quen năm trước bây giờ đến
Thử hỏi non sông đã biết chưa?
3- Thuyền từ một lá vơi vơi
Biển trần chở biết mấy người trầm luân.
Nhất thiết vô hữu như Phật giả

 
Phật là người hỉ xả từ bi
Xem trong đời hư huyễn có ra chi
Đến thê tử quốc thành cũng bỏ
Non tuyết lãnh sáu năm tu khổ hạnh
Mành hình hài xem có cũng như không.
Miễn tu hành đạo quả cho xong
Xem nhân thế ví bằng như dép rách
Vì ngài thấy chúng sanh trong hỏa trạch
Những lao đao khổ ách nghiệt nghèo.
Trải kiếp xưa gây nghiệp chướng đã nhiều
Nên luân chuyển chịu điều báo ứng.
Vậy ngài mới ra tay bạc chửng
Vớt loài mê cho khỏi chốn trầm luân
Trên thì báo đáp đấng quân thân
Dưới đến mỗi loài đều tế độ
Chuyển xe pháp rra đời dạy dỗ
Dấu tiên phong thiên cổ hãy còn truyền,
Đem lòng về phản bàn hoàn nguyên
Thời muôn kiếp được siêu nhiên trên cõi tịnh

Tường quang thước phá thiên sinh bịnh

Cam lộ năng trừ vạn kiếp tai.
Hãy khuyên người thay mắt đổi tai, 
Để cho ai nấy lâu dài kim thân 
Vui chi thứ một mảnh trần,
4- Người đời há đặng bao lâu 
Trắng răng phút đã bạc đầu như chơi 
Thế giới như không hoa, 
Nhân sinh như mộng huyễn,
Ví bằng chẳng kiếm phương tu luyện 
Chi khỏi đâu huyễn cảnh buộc vào mình? 
Trong trăm năm đặng mấy lúc an bình 
Rồi đã thấy tóc xanh thành tóc bạc. 
Hà tu đãi linh lạc 
Nhiên hậu thủy tri không?
Những nâng niu sớm lục tối hồng 
Những xạ ướp hương xông nức nở. 
Non sông còn khi bồi khi lở 
Huống thân người như bóng đổ phù du 
Vui sướng chi mà đeo đuổi chốn diêm phù, 
Trong ba cõi ngó đường như hỏa trạch 
Chiếc thuyền từ sớm khuya đưa khách 
Nước thanh lương rửa sạch trần ai 
Hỡi xin người thay mắt đổi tai 
Thì chín phẩm liên đài lên có lúc 
Đạo thụ bất tài viên quả thục 
Linh căn vị chủng giác hoa hương
Trên mây rủ tấm lòng thương 
Vậy nên xuống bước mở đường ngu mông, 
Phật tiên vốn cũng một lòng. 
Văn chữ Hán của thiền sư Viên Thành rất trang nhã và có nhiều khí lực. Bài bạt ông viết cho kinh Pháp Bảo Đàn được rất nhiều bậc thức giả đương thời ca ngợi. 

Thiền sư Viên Thành mất năm 1928, thọ 49 tuổi. Ông tu được ba mươi hai năm, ở Ba La Mật 27 năm và lên Tra Am được có năm năm. Đệ tử có bốn người: Trí Uyên, Trí Hiển, Trí Giải và Trí Thủ. Thiền sư Trí Thủ là người duy nhất xuất gia ở Tra Am. Ông đã trở thành một trong những cột trụ của Phật giáo Việt Nam cận đại. 

Bây giờ, ta hãy tìm hiểu sơ lược sơ lược về cuộc đời các vị chứng minh đạo sư của hội An Nam Phật Học là Đắc Ân, Phước Hậu, Tịnh Hạnh và Giác Nhiên.
 

THIỀN SƯ ĐẮC ÂN
Thiền sư Đắc Ân tên Đặng Kỳ Đinh, sinh năm 1873 ở Quảng Bình. Năm mười tuổi được lên ở chùa Linh Mụ. Năm 22 tuổi ông được thụ cụ túc giới đàn Báo Quốc do thiền sư Lương Duyên chủ tọa. Năm ba mươi chín tuổi ông về chùa Quốc Ân và đắc pháp với thiền sư Thanh Hy trú trì chùa này và được pháp hiệu là Đắc Ân. Năm ông bốn mươi hai tuổi thì thiền sư Thanh Hy tịch; ông được cử làm tọa chủ chùa Quốc Ân. Năm sau ông trùng tu chánh điện Quốc Ân. Và năm bốn mươi bốn tuổi ông được cử làm trú trì chùa Linh Mụ. Năm năm mươi hai tuổi, ông được mời làm đệ tam tôn chứng trong giới đàn chùa Từ Hiếu. Ông tịch năm 1935, thọ 62 tuổi. Vị trú trì chùa Vạn Phước đi câu đối như sau:

Hoàng diệp không hoa tinh thế mộng
Sơn vân thủy nguyệt ngộ tiền thân.

THIỀN SƯ PHƯỚC HẬU
Thiền sư Phước Hậu sinh năm 1866 tại làng An Tuyền, tỉnh Thái Bình ở Bắc Kỳ. Ông xuất gia hồi còn bé thơ. Năm 1884 ông thụ giới làm đệ tử của thiền sư Tâm Truyền, và theo học ba năm với thiền sư này. Năm 1909, ông được đắc pháp với thiền sư, hiệu là Phước Hậu. Bài kệ đắc pháp như sau:

Thuần thành bản tính thể như trung
Tảo tận trần tâm đạo lý dung

Đức thịnh từ năng mông Phước Hậu
Chân truyền y bát chấn tông phong
 
Dịch:

Thể vốn thuần thành tính sáng trong

Trần tâm rửa sạch lý bao dung
Đức lớn từ bi nên phước hậu
Chân truyền y bát rạng tông phong.
Năm 1916, bộ Lễ mời ông làm trú trì chùa Trường Xuân. Năm 1920 ông giữ chức trú trì chùa Linh Quang, và đến năm 1939 ông sung chức tăng cương và trú trì chùa Báo Quốc. Ông tịch năm 1953 tại chùa Báo Quốc, thọ 87 tuổi, có tới sáu mươi tuổi hạ. Ông cũng là một thiền sư ưa ngâm vịnh. Thơ của ông có gần tới trăm bài mà chưa thu góp lại được. Sau đây là một vài bài được người biết đến nhiều nhất:
1- Tâm thanh thiên nguyệt hữu
Tánh tịnh hải vô ba
Viên minh tận nhất điểm
Phóng xuất mãn sơn hà
Dịch:
Tâm lặng vầng trăng tỏ
Tính yên sóng chẳng xao
Chỉ một điểm tròn sáng
Mà rạng cả sơn hà
2- Kinh điển lưu truyền tám vạn tư
học hành không thiếu cũng không dư
hôm nay tính lại chừng quênhết
chỉ nhớ trên đầu một chữ như
3- Úi chà chà, tháp cao
Trèo lên thử thế nào
Chùa Vua, thầy chúc tụng
Cửa Phật, chúng ra vào
Chuông trống vang lừng núi
Đuốc đèn rạng tựa sao
Của tiền làm thế ấy
Công đức biết là bao!
(Đám Chay Chùa Thiên Mụ)
THIỀN SƯ TỊNH HẠNH
Thiền sư Tịnh Hạnh sinh năm 1889 tại làng Dưỡng Mông Thượng, quận Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên, xuất gia lúc mười sáu tuổi với người em ruột là thiền sư Tịnh Khiết, tại chùa Tường Vân, làm đệ tử của thiền sư Thanh Thái. Năm hai mươi bốn tuổi, ông thụ Cụ Túc giới tại giới đàn Phúc Lâm ở Quảng Nam do thiền sư Vĩnh Gia làm chủ tọa. Năm hai mươi tám tuổi, ông được theo học tập lớp Phật pháp của thiền sư Huệ Pháp mở tại chùa Thiên Hưng. Năm ba mươi hai tuổi, ông được cử làm tọa chủ chùa Tường Vân. Ông cũng từng đến nghe thiền sư Phước Huệ giảng dạy tại chùa Trúc Lâm. Ông tich năm 1933, thọ bốn mươi lăm tuổi. Sơn môn đi câu đối như sau:
Niết bàn chân cứu cánh, phương năng tán thủ nhân hoàn, thập dư niên đại chuyển pháp luân, tùng kim khứ hướng Quang Minh quốc;
Sắc tướng bản lai không, chỉ hợp thê tâm tịnh độ, tam thiên bố vi trần võng,nhượng ngã dư ư Tự Tại Thiên.
(Niết Bàn đã chứng, giải thoát giữa nhân hòa, mười mấy năm xe Pháp xoay tròn, nay mới thẳng đường về cực lạc; 
Sắc tướng vẫn không, nhật dụng trong tịnh độ, ba ngàn cõi lưới bủa khắp, riêng ai vui thú cảnh Chân Như)

 
NHỮNG TRUNG TÂM CHẤN HƯNG
Như chúng ta thấy, những vị tăng sĩ đã đóng góp vào phong trào phục hưng của Phật giáo tại Trung kỳ phần lớn thuộc về hai trung tâm lớn: trung tâm Thừa Thiên và Trung tâm bình Định. Về trung tâm Bình Định ta chỉ mới nói đến thiền sư Phước Huệ chùa Tịnh Lâm. Hội Phật học Bình Định là một trong những hội hoạt động khá nhất ở Trung Kỳ. Tại chùa Long Khánh, một Phật học đường cấp trung đẳng được hội thiết lập đầu năm 1937 do thiền sư Phước Huệ đứng làm đốc giáo. Thiền sư Phước Huệ vì lý do sức khỏe, từ đây chỉ ở lại Bình Định và dạy Phật học đường Long Khánh, chứ không ra Huế nữa. Vì lý do đó, nhiều học tăng lớp đại học tại Huế, trong số đó có nhiều vị được gửi từ Phật học đường Lưỡng Xuyên ra, đã theo về Bình Định và tiếp tục học nơi Phật học đường Long Khánh. Trong số đó ta có thể kể thiền sư Thiện Hòa, Thiện Hoa, Hiển Thụy, Hiển Không và Bửu Ngọc.
Các thiền sư Bích Liên (ở Nam về), Bạch Sa, Minh Tịnh và Thiên Đức đều được mời làm giảng sư của trường trung đẳng chùa Long Khánh. Các cư sĩ hữu tâm hộ đạo như Nguyễn Mạnh Trừng, Phan Thanh Khuyến và Lê Tư Oanh đều ở trong số những người hoạt động nhất của hội. Các thiền sư Chí Bảo (chùa Hưng Khánh), Viên Minh (chùa Linh Phong), Chí Thanh (chùa Thiên Thọ), Chí Mẫn (chùa Nhạn Sơn), Cao Minh (chùa Tịnh Liên), và Tường Quang (chùa Phước Sơn) đều đã đóng góp nhiều cho Phật sự địa phương.
Ngoài hai trung tâm Thừa Thiên và Bình định, còn có trung tâm Đà Nẵng cũng rất hoạt động. Với sự yểm trợ của các thiền sư Tôn Nguyên (chùa Linh Ứng), Tôn Bảo (chùa Vu Lan), Tôn Thắng (chùa Phổ Thiên), Thiện quả (chùa Tam Thai), Phổ Trí (chùa Phước Lâm) vàPhổ Thoại (chùa Long Tuyền), hội Đà Thành Phật Học được thành lập và một tạp chí được xuất bản lấy tên là Tam Bảo. Thiền sư Bích Liên ở Bình Định làm chủ bút tạp chí này. Một Phật học đường được khai giảng tại chùa Phổ Đà cho hai cấp tiểu học và trung học do thiền sư Giác Phong làm giám đốc và thiền sư Giác Viên (trú trì chùa Hồng Khê) chủ giảng.
Tạp chí Tam Bảo xuất bản năm 1937 đã bị đình bản vào giữa năm 1938. Tạp chí này thường đề cập đến nhu yếu thống nhất các đoàn thể Phật giáo trong xứ thành một hội Phật Giáo Liên Hiệp. Bản ý và chủ đích hành động của hội Đà Thành Phật Học, theo Tam Bảo, là:
1) Phò khởi tăng giới, nguyện cùng chư Sơn Nam Bắc liên đoàn, để bảo tồn Tăng Bảo.
2) Nguyện cùng chư Sơn chấn chỉnh tôn phong, chung một điều lệ thi hành, cần nhất là phải giữ cho được hoàn toàn giới hạnh(73).
Về một hội Phật giáo liên hiệp thống nhất, Tam Bảo đề nghị tổ chức hai cơ quan: cơ quan Hoằng Pháp và cơ quan Hộ Pháp. Cơ quan Hoằng Pháp do chư tăng chủ động, gồm có các trách vụ nghi lễ, tổ chức, truyền bá và giáo dục. Cơ quan Hộ Pháp, do cư sĩ phụ trách gồm có các trách vụ cứu tế, ngoại giao, kiểm sát, kiến trúc, điều độ và kinh tế(74).
NI SƯ DIÊN TRƯỜNG
Để chấm dứt chương này, ta hãy nói đến vị ni sư tiên phong cho ni giới ở Trung Kỳ: Ni sư Diên Trường, người đã khai sáng chùa Trúc Lâm, nơi khởi điểm của phong trào chấn hưng Phật học.
Ni Sư Diên Trường họ Hồ Đắc, sinh năm 1863 tại làng An Truyền huyện Phú Vang tỉnh Thừa Thiên. Mẹ của bà là Công Nữ Thúc Huấn, con gái của Tùng Thiện Vương. Bà xuất gia tại chùa Từ Hiếu năm 1898, hồi bà ba mươi sáu tuổi, sau khi nhận thấy cuộc đời là vô thường và khổ đau: chồng và con trai bà đã mất bà chỉ còn lại một cô con gái(75). Thiền sư Hải Thiệu (Cương Kỷ) cho bà Pháp danh Thanh Ninh, pháp tự Diên Trường.
Bà tu hành rất tinh tiến. Năm 1910, bà được đi thọ giới cụ túc ở đại giới đàn Quảng Nam do thiền sư Vĩnh Gia làm chủ tọa, sau một thời gian thực tập tại Từ Hiếu, bà được thiền sư Cương Kỷ ủy thác ra trùng tu chùa Phổ Quang ở gần dốc Bến Ngự để trú trì và làm cơ sở tu học cho một ni chúng.
Chùa Phổ Quang vừa được trùng tu xong thì đường xe lửa thiết kế chạy ngang trước cổng chùa. Thất vọng, bà tìm vào một ngọn đồi ở gần Cầu Lim, thuộc thôn Thuận Hòa ở làng Dương Xuân Thượng và lập chùa Trúc Lâm.
Chùa Trúc Lâm lập xong, bà vào chùa Tây Thiên xin với sư huynh là thiền sư Tâm Tịnh cho phép thiền sư Giác Tiên ra trú trì. Bà lập ni xá riêng tại chùa và quy tụ một số các vị ni sư khác tới tu học, trong đó có các ni cô Chơn Hương, Diệu Hương, Giác Hải v.v… sau này sẽ đóng những vai trò quan trọng trong sự lãnh đạo ni giới. Năm 1924, các vị này được thụ giới tại giới đàn Từ Hiếu do bà làm y-chỉ-sư. Năm 1925, đúng vào ngày Phật Đản, bà rước các thiền sư Tâm Tịnh (chùa Tây Thiên) và Huệ Pháp (chùa Thiên Hưng) đến Trúc Lâm tụng kinh Pháp Hoa. Đến trưa, sau khi bộ Pháp Hoa được tụng xong, bà làm lễ tạ ơn hai vị và tất cả đại chúng, rồi vào thiền phòng ngồi kiết già mà thị tịch. Bà thọ được sáu mươi bốn tuổi.
Thiền sư Viên Thành có làm bài kệ tán sau đây:

Thiện tai nữ đạo sư!

Giải thoát nhân trung kiệt
Thịnh niên xả thế vinh
Phỏng đạo ngộ Thiền Duyệt
Bát kính thị căn trì
Trường trai thủ tố tiết
Uản giới phù vân không
Phiền não hải thủy kiệt
Giác mộng cảnh từ chung
Độ mê tháo bảo phiệt
Công đức mãn chiên lâm
Thanh lương đẳng tuế nguyệt
An ổn tọa bồ đoàn
Liễu chứng vô sinh quyết
Sơn sắc thanh tịnh thân,
Khê thanh quảng trường thiệt
Tích lai bản bất sinh
Kim khứ hà tằng diệt
Siêu nhiên bỉ ngạn đăng
Liên đài diệu hương khiết
Dịch:

Lành thay nữ đạo sư

Bậc giải thoát hào kiệt!
Bỏ vinh hoa cuộc đời
Tìm vui nơi thiền duyệt.
Pháp bát kỉnh hành trì
Nếp trường trai tinh khiết
Uẩn., giới như mây bay
Biển não phìên khô diệt
Lời kia là suối reo
Thân kia là núi biếc
Xưa chưa hề có sinh
Nay cũng không từng diệ
Bờ bên kia bước lên
Đài sen hương diệu khiết.
 

(66)Tên chùa thiền sư là Tuệ Pháp, nhưng chữ Tuệ cũng đọc là Huệ, nhất là ở Trung và Nam
(68)Giọng Bắc phất âm là Phổ Tuệ hay Phả Tuệ
(69)Thiền sư Viên Giác tên là Nguyễn Khoa Luận, sinh năm 1834 tại Thừa Thiên. Ông đỗ cử nhân khoa Tân Dậu (1861) dưới triều vua Tự Đức. Ông từng làm án sát Quảng Bình, bố chính Quảng Ngãi và Thanh Hóa. Sau khi triều đình đề nghị hòa với quân Pháp, ông thất vọng từ quan. Năm 1886 ông xuất gia tại chùa Từ Hiếu, làm đệ tử thiền sư Cương Kỷ, được pháp danh là Thanh Chân, rồi về chùa Ba La Mật tu hành, năm 1891 ông thụ tỳ kheo giới tại giới đàn Báo Quốc, cũng do thiền sư Cương Kỷ truyền giới. Ông tịch năm 1900, thọ 67 tuổi.
(70)Nguyễn Khoa Tân tự là Tứ Phương. Hiệu là Bình Nam, đã từng lmà hội trưởng hội An Nam Phật Học. Ông là con thứ tư của Nguyễn Khoa Luận (án sát Thanh Hóa, sau này di tu thành thiền sư Viên Giác chùa Ba La Mật). Đậu cử nhân năm 1894, ông giữ chức tổng đốc Quảng Nam, sau được thăng thượng thư bộ hộ, hiệp tá đại học sĩ sung cơ mật viện đại thần dưới triều vua Khải Định. Ông chơi rất thân với thiền sư Viên Thành. Ông học Phật bằng nhiều cách đọc Hải Triều Âm văn khố, và cũng nghiên cứu Duy Thức Học chung với Viên Thành. Có lần ông gửi tặng Viên Thành một bức ảnh có bốn câu:
Mang mang đại địa trung
Hà chân nhi hà giả?
Chư Phật thị chúng sanh
Bình Nam diệc phi ngã
Dịch:
Mênh mông trên cõi đất
Biết gì chân gì giả 
Chư Phật là chúng sinh 
Bình Nam cũng phi ngã 
Ông có làm bài thơ sau đây tặng Viên Thành: 

Thúy trúc hoàng hoa đại nhã phong 

Cao nhân tể sắc tịch dương hồng 
Tân thi ngâm biến hồn vô trước 
Tâm cộng nhàn vân quá thái thông 
Dịch: 

Trúc biếc hoa vàng trang nhã phong 

Cao nhân chiều ngâm giải mây hồng 
Thơ tiên ngâm mãi không vướng 
Lòng tợ mây bay giữa hư không 
Năm 1924, ong có gửi thỉnh một Đại Tạng Kinh gồm hơn 8.000 cuốn để biếu vua Khải Định. Kinh này được vua cất ở cung An Định để làm tài liệu học tập. Ông làm hội trưởng hội An Nam Phật Học năm 1935. lễ Phật Đản năm ấy vĩ đại một phần quan trọng là do ông.
(71)Nguyễn Văn Thoa: Thiền Sư Viên Thành. Môn đồ Ba La Mật và Tra Am ấn hành. Nha Trang 1974.
(72)Chữ Cố nhân ở đây có nghĩa là tự tính, là mặt mũi xưa nay của mình.
(73)Tam Bảo, số 2 (15.2.1937).
(74)Tam Bảo, số 5 (6.7.1937).
(75)Con gái bà tên Nguyễn Thị Kim Đính, sau này là bà bác sĩ Trương Xướng, một trong những người có công với công cuộc phục hưng Phật học sau này.

---o0o---