|
CHƯƠNG XXVII THIỀN SƯ KHÁNH HÒA VÀ CÔNG CUỘC VẬN ĐỘNG Ở NAM KỲ
Công
đầu của phong trào chấn hưng thuộc về thiền sư Khánh
Hòa. Ông sinh năm 1877 tại làng Phú Lễ tỉnh bến Tre, xuất
gia năm 19 tuổi tại chùa Khải Tường. Sau đó ông được
đưa về chùa Kim Cang ở Tân An và làm lễ thế độvới thiền
sư Chánh Tâm. Năm năm sau, ông được đưa về chùa Long Triều
và học Phật với thiền sư Đạt Thụy. Y chỉ sư đầu tiên
của ông là thiền sư Chơn Tánh, trú trì chùa Tiên Linh ở
Bến Tre. Sau khi đắc pháp ông được thiền sư Chơn Tánh ủy
nhiệm công việc trú trì chùa Khải Tường. Khi thiền sư Chơn
Tánh tịch, ông về làm trú trì chùa Long Phước. Năm 1907 ông
về trú trì chùa Tiên Linh. Ông đắc pháp với thiền sư Đạt
Thụy và có pháp hiệu là Như Trí. Ông rất có chí cầu học,
hễ nghe ở đâu có bực cao tăng là tìm tới để họ thọ
giáo. Năm hai mươi tám tuổi, trong kỳ kết hạ tại chùa Long
Hoa ở quận Gò Vấp, gia Định, ông được mời giảng kinh
Kim
Cương Chư Gia cho đại chúng. Đây là lần đầu ông làm
giảng sư Phật học. Ông được các bậc tôn túc khen ngợi
và từ đó tiếng tăm của ông được đồn xa.
Chí
nguyện chấn hưng Phật giáo của ông phát sinh vào khoảng
năm ông được bốn mươi tuổi. Ông du hành khắp các tổ
đình và Nam Kỳ để gây ý thức chấn hưng và kêu gọi sự
hợp tác của các bậc tôn túc. Ông liên kết được một
số các vị cao tăng đồng chí, trong số đó có Huệ Quang,
Pháp Hải và Khánh Anh, những người đã cộng tác chặt chẽ
với ông trong suốt thời kỳ họat động của ông sau này.
Năm 1923 trong một buổi họp của đại diện các tổ đình
tại chùa Long Hòa ở Trà Vinh, dưới sự hướng dẫn của
ông, một tổ chức tăng sĩ được thiết lập gọi là hội
Lục
Hòa liên Hiệp với mục đích là vận động thành lập
một hội Phật giáo Việt Nam Toàn Quốc làm cơ sở chấn hưng
Phật giáo. Trong số những người cộng sự của ông, có một
vị tăng sĩ trẻ đầy nhiệt huyết tên là Thiện Chiếu. Thiện
Chiếu khác hẳn với hầu hết các tăng sĩ đương thời, vì
ông là người tân học xuất gia. Năm 1927, Thiện Chiếu được
ông gửi ra Bắc để vận động. Tại đây, Thiện Chiếu đã
tiếp xúc với các tổ đình Linh Quang, Hồng Phúc, Tiên Lữ
v.v..., nhưng gặp nhiều trở ngại, cuộc vận động bất thành.
Sau
mùa an cư tại Quy Nhơn, Khánh Hòa trở về Nam đề nghị khởi
xướng phong trào ở Nam Kỳ trước. Năm 1928 ông cùng ba vị
tăng sĩ đồng chí là Từ Nhẫn, Chơn Huệ và Thiện Niệm
lo tổ chức việc xây dựng Thích Học Đường và Phật
Học Thư Xã tại chùa Linh Sơn đường Duaumonht Sài Gòn.
Năm 1929, Khánh Hòa và Thiện Chiếu lại vận động giới cư
sĩ hữu tâm ở Trà Vinh gửi mua cho Thư Xã một bộ Tục
Tạng Kinh gồm 750 tập và an trí tại chùa Linh Sơn. Năm
1929, Khánh Hòa cho ấn hành một tập san Phật học bằng quốc
ngữ lấy tên là Pháp Âm. Pháp Âm đặt cơ sở tại
chùa Xoài Hột Mỹ Tho, dựa trên sự ủng hộ kinh tế của
bổn đạo chùa này. Đó là tờ báo Phật đầu tiên bằng
quốc ngữ tại Việt Nam. Số đầu ra đưòi ngày 13.8.1929.
Nhưng Thiện Chiếu cho từ báo ấy là "xưa" quá, cho nên
ông tự ý vận động xuất bản một văn tập lấy tên là
Phật
Hóa Tân Thanh Niên, nhắm tới giới thanh niên trí thức.
Tờ này đặt căn cứ tại chùa Chúc Thọ ở Xóm Gà (Gia Định).
Trong khi công việc vận động xây dựng Thích học đường
đang được xúc tiến thì Khánh Hòa cùng các bạn đồng chí
quyết định thành lập một hội Phật học để làm bàn đạp
cho sự tiến tới thành lập Phật giáo Tổng Hội. Ông triệu
tập các đồng chí, và với sự cộng tác của một số cư
sĩ tại Sài gòn như các ông Phạm Ngọc Vinh, Huỳnh Văn Quyền,
Trần Nguyên Chấn, Trần Văn Khuê, Nguyễn Văn Nhơn, Lê Văn
Phổ và Nguyễn Văn Cần... thành lập hội
Nam Kỳ Nghiên
Cứu Phật Học. Hồi đó Khánh Hòa đã được năm mươi
lăm tuổi. Hội Nam Kỳ Nghiên Cứu Phật Học được thành
lập năm 1931, điều lệ của hội được phê y ngày 26 tháng
Tám năm ấy. Thiền sư Từ Phong chùa Giác Hải ở Chợ
Lớn được bầu làm chánh hội trưởng. Khánh Hòa giữ
trách vụ phó nhất hội trưởng và chủ nhiệm tạp chí Từ
Bi Âm. Tạp chí này chào đời ngày 1.3.1932. Hai vị cố
vấn là thiền sư Huệ Định (71 tuổi) và thiền sư Trí Thiền
(50 tuổi). Ông Trần Nguyên Chấn làm phó nhì hội trưởng.
Chùa Linh Sơn ở số 149 đường Douaumont được lấy làm trụ
sở, ngay cạnh khu đất riêng của ông Trần Nguyên Chấn. Ngay
sau khi hội được thành lập, sáu căn nhà ngói được
khởi công xây dựng gần chùa Linh Sơn, trên khu đất của
ông Trần Nguyên Chấn với sự đồng ý của ông này. Khuôn
viên chùa chật hẹp nên thư viện cũng được xây cất trên
đất ông Chấn. Thư viện này có tên là Pháp Bảo Phương.
Tục
Tạng Kinh được đem an trí tại đây. Thiện Chiếu lại
vận động giới cư sĩ ở Chợ Lớn gởi mua thêm cho Pháp
Bảo Phương một Đại Tạng Kinh vừa mới được ấn
hành tại Trung Hoa(28)
Bàn
ghế tủ giường đã được trang bị cho học tăng nội trú
của Thích học đường nhưng mãi đến 1934 mà trường này
vẫn chưa khai giảng. Nguyên do là sự bất đồng ý kiến giữa
chư tăng và một số cư sĩ không chịu làm theo đường lối
và ý hướng của các vị này. Ông Trần Nguyên Chấn nhất
định không cho khai giảng Thích học đường.
Chương
trình của Khánh Hòa thất bại vì các thiền sư đã không
nắm được thực quyền trong hội. Hội đã bị một số cá
nhân dùng địa vị trong xã hội của họ để khuynh loát và
hướng dẫn về một nẻo khác. Ngay từ khi mới thành lập
hội, ông Trần Nguyên Chấn đã vận động mời ông Khrautheimer
(thống đốc Nam Kỳ) làm hội trưởng danh dự và ông Rivoal
(đốc lý thành phố Sài Gòn) làm phó hội trưởng danh dự
và ông Rivoal (đốc lý thành phố Sài Gòn) làm phó hội danh
dự. Sự thỏa hợp với chính quyền là để nhằm vào an toàn
và quyền lợi của hội. Tuy vậy, những quyền lợi đó không
có gì đáng kể: sự trả lại ruộng đất các chùa bị chiếm
hữu tại các xã và sự miễn thuế thân cho tu sĩ Phật giáo.
Thất
vọng về hội Nam kỳ Nghiên Cứu Phật Học, đầu năm 1933
Khánh Hòa từ bỏ chức vị phó hội trưởng và chủ nhiệm
Từ
Bi Âm. Lúc đó Từ Bi Âm đã ra tới số 45. Ông rút
về Trà Vinh để cùng các thiền sư Huệ quang và Khánh Anh
mưu toan tìm con đường mới. Một vị thiền sư ở chùa Thiên
Phước quận Trà Ôn tên là Chánh Tâm được mời giữ chức
chủ nhiệm Từ Bi Âm. Tuy vậy nhờ sự hợp tác của
các thiền sư Bích Liên và Liên Tôn mà Từ Bi Âm còn
đóng được một vai trò hoằng pháp đáng kể. Từ Bi Âm
không đóng góp được gì trong việc xây dựng ý thức văn
hóa dân tộc, nhưng trong mười năm trời cũng đã làm được
công việc phổ thông hóa Phật học bằng quốc ngữ.
Bích
Liên và
Liên Tôn phát xuất tại Bình Định. Chính
Khánh Hòa đã khám phá được hai người này khi ông ra thuyết
pháp tại giới đàn Long Khánh ở Quy Nhơn và năm 1928. Nhận
thấy thực tài của hai người, ông bèn kết làm thân hữu
và mời hai người vào Nam họat động. Bích liên đã làm chủ
bút Từ Bi Âm trong khi Liên Tôn làm phó chủ bút. Trần
Nguyên Chấn làm quản lý của tạp chí này, và đã không bao
giờ để cho Từ Bi Âm chết vì lý do tiền bạc.
Thiền
sư Bích Liên tên là Nguyễn Trọng Khải sinh năm 1876. Khi nhận
làm chủ bút Từ Bi Âm ông đã năm mươi bảy tuổi.
Năm ba mươi mốt tuổi ông đậu tú tài Nho học, và năm ba
mươi bốn tuổi ông đậu tú tài Nho học một lần nữa. Ông
xuất gia năm 1919 tại chùa Thạch Sơn ở Quảng Ngãi, pháp
danh là Chơn Giám, tự là Đạo Quang, hiệu là Trí Hải. Bích
Liên chỉ là tên ngôi chùa mà ông khai sáng và trú trì sau
khi ông xuất gia. Năm 45 tuổi, ông đắc pháp với hòa thượng
Hoằng Thạc chùa Thạch Sơn. chuyên về Tịnh Độ Tông, ông
đã sáng tác các sách sau đây bằng chữ Hán: Liên Tông
Thập Niệm Yếu Lãm, Tịnh Độ Huyền Cảnh, Tây Song Ký, Tích
Lạc Văn. Ông cũng sáng tác nhiều bằng chữ Nôm. Quy
Sơn Cảnh Sách và Mông Sơn Thí Thực Khoa Nghi là hai
tác phẩm dịch Nôm nổi tiếng hơn cả trong số này. Văn Nôm
ông rất chỉnh đốn. Ta hãy đọc một đoạn trong Mông
Sơn Thí Thực Khoa Nghi:
"Lại
thỉnh kẻ tao ông mặc khách
Lối
cửa hoàng nhà bạch vào ra,
Rừng văn nhẹ bước thám hoa Ngang cung bút chiến, chơi tòa các vi Tan lửa đóm, tiếc dày công học Mòn đĩa nghiên uổng nhọc chí bền Lụa hồng bảy thước đề tên, Đất vang một cụm lấp nền văn chương Lại thỉnh kẻ xuất trần phi tích Thượng sĩ kia với khác cao tăng Trai tinh ngũ giới đạo hằng Gái tỳ khưu lại đủ ngằn nết tu Làng hoa trúc vào câu mật đế Nhà hỗ nô vắng kệ khổ không Kinh song trăng thảm lạnh lùng Nhà thiền leo lét đèn chong canh dài... ... Lại thỉnh kẻ giang hồ cơ lữ Đường Bắc Nam trải thứ hành hương Lợi quyền muôn dặm toan đương Ngàn vàng trữ lại trong hàng hóa buôn Thân sương gió thịt chôn bụng cá Bước đá mây xương rã đường dê Vía theo mây Bắc sè sè Hồn theo ngọn nước xuôi về biển Đông Lại thỉnh kẻ lướt xông chiến trận Sức phương cường mình bận áo binh Cờ điều phất bóng tượng tranh Trung chùm mũ bạc đem mình chống đương Gan ruột nát theo đường kim cổ Da thịt rơi đầy chỗ can qua Cát vàng văng vẳng tiếng ma Mờ mờ xương trắng ai mà thu cho?...(29) Trong các tập san Từ Bi Âm và Tam Bảo, Bích Liên còn viết nhiều bài Phật pháp bằng thơ lục bát. Năm 1938, ông được mời về làm giáo sư tại Phật học đường Long Khánh ở Quy Nhơn. Ông mất tại chùa Bích Liên năm 1950, thọ bảy mươi bốn tuổi. Sau đây là bài kệ truyền thừa của ông: Chân ngọc hồng sơn chiếu Trừng châu bích hải viên Lý minh tri tính diệu Trí mật ngộ tâm huyền Tịch duyên hoài túy liễu Lạc quốc ngự kim liên Thánh cảnh quy lai nhật Tông phong chấn cổ huyền Thiền sư Liên Tôn sinh năm1882 ở Bình Định. Ông tên là Võ Trấp, ba mươi tuổi đậu tú tài Nho học. Năm ba mươi bảy tuổi ông xuất gia tại chùa Tịnh Lâm, học với thiền sư Từ Mẫn, được pháp danh là Như Phước, tự là Giải Tiềm, hiệu là Huyền Ý. Liên Tôn chỉ là tên chùa nơi ông trú trì, ở làng Hưng Trị, quận Phù Cát, do ông lập nên năm ông bốn mươi mốt tuổi. Ông có sáng tác Đáo Liên Thành Lộ bằng chữ Hán, hiện chưa tìm lại được. Sáng tác chữ Nôm của ông có: Sa Di Luật Diễn Nghĩa, A Di Đà Kinh Diễn Nghiữa, Kim Cang Bát Nhã Diễn Nghĩa. Tác phẩm thơ Chứng Đạo Diẽn Ca của ông hiện cũng chưa tìm lại được. Ông vào Nam năm 1931 do thư mời của hội Nam kỳ Nghiên Cứu Phật Học. Theo đề nghị của Bích Liên, năm 1931 hội cũng có viếùt thư mời một vị tăng sĩ có tân học là Trí Độ vào hợp tác với Từ Bi Âm. Ngoài ba cây bút gốc Bình Định, Từ Bi Âm còn có ba cây bút khác cũng thuộc giới tăng sĩ: đó là Thiện Dung (từ Mỹ Tho), Giác Nhựt (từ Cần Thơ) và Nhựt Chánh (Sài Gòn). Để ủng hộ cho tờ báo, chủ nhiệm Từ Bi Âm là Chánh Tâm đã cúng ruộng chùa Thiên Phước do ông trú trì vào hội Nam Kỳ Nghiên Cứu Phật Học. Tạp chí Từ Bi Âm có thể nói là đóng góp đáng kể gần như duy nhất của Hội Nam Kỳ Nghiên Cứu Phật Học. Tuy nhiên, Bích Liên và Trí Độ không làm việc được mãi với hội này. Cuối năm 1936, Bích Liên trở về Bình Định, nhận chức giáo thọ cho Phật học đường chùa Long Khánh, Quy Nhơn; Trí Độ cũng về Bình Định và sau đó ra Huế dạy trường An Ban Phật học ở Báo Quốc.
Nóng
lòng về chuyện đào tạo tăng tài, Khánh Hòa rút về chùa
Long Hòa, tổ chức Phật học đường lưu động lấy tên là
Liên
Đoàn Phật Học Xã. Khoảng năm mươi vị học tăng được
thu nhận vào liên đoàn và lớp học đầu được khai giảng
tại chùa Long Hòa, do các vị Huệ Quang, Khánh Anh và Pháp Hải
giảng dạy. Khánh Hòa kêu gọi tín đồ ủng hộ tài chính
cho chùa Long Hòa để chùa có thể cung phụng cho lớp học
đủ mọi vật dụng. Chủ bút Từ bi Âm lúc bấy giờ
là thiền sư Chánh Tâm, một pháp hữu của Khánh Hòa, cũng
kêu gọi đóng góp vào công trình này.
Sau
hai khóa nữa ở chùa Thiên Phước (Trà Ôn) và chùa Viên Giác
(Bến Tre): lớp Phật học này bị tan rã vài lý do thiếu tài
chính. Lúc ấy Khánh Hòa thấy rằng cần phải thành lập một
hội Phật học có đông đảo hội viên đóng góp tài chính
thường trực mới có thể duy trì được một Phật học đường.
Ông bèn cùng các pháp hữu thành lập hội Lưỡng Xuyên Phật
Học tại Trà Vinh. Cộng tác với họ có một số các vị
cư sĩ mà họ chọn lựa trong giới có nhiều đạo tâm nhất:
Nguyễn Văn Khỏe, Trần Văn Giác, Phạm Văn Liêu, Huỳnh Thái
Cửu, Ngô Trung Tín và Phạm Văn Luông. Ban đầu, một bản
điều lệ của ban "Cai quản tạm thời" được công bố
ngày 1.3.1934; ông Huỳnh Thái Cửu đứng ra làm trưởng ban.
Sau khi giấy phép được ký ngày 13.8.1934 thì thiền sư An Lạc
chùa Vĩnh Tràng, Mỹ Tho được bầu làm hội trưởng.
Hội
Lưỡng
Xuyên Phật Học (Lưỡng Xuyên có ý nghĩa là "hai con sông",
đó là các sông Tiền Giang và Hậu Giang) được thành lập
chính thức ngày 13.8.1934, đặt trụ sở tại chùa Long Phước
ở Trà Vinh(30).
Công
việc đầu tiên của hội là tổ chức Phật học đường.
Công việc tổ chức cơ sở và tuyên truyền chọn học tăng
được thực hiện rất mau chóng. Phật học đường Lưỡng
Xuyên được khai giảng ngay vào cuối năm 1934. Các thiền sư
Huệ Quang và Khánh Anh được mời đến giảng dạy. Khánh
Hòa đảm nhiệm trách vụ đốc giáo. Hai vị cư sĩ hữu tâm
và Ngô Trung Tín và Huỳnh thái Cửu họp nhau mua tặng cho Phật
học đường một bộ Đại Tạng Kinh khác để làm tài
liệu học tập.
Phật
học đường Lưỡng Xuyên có thu nhận cả tăng sinh lẫn ni
sinh, nhưng ni sinh được tổ chức thành lớp riêng do thiền
sư Minh Tịnh điều khiển.
Năm 1935, hội xuất bản sách Phật Học Giáo Khoa bằng hai thứ tiếng Việt và Hán. Tạp chí Duy tâm của hội được ra mắt vào tháng Mười năm 1935. Huệ Quang đứng làm chủ nhiệm và quản lý là bác sĩ Nguyễn Văn Khỏe. Tòa soạn được đặt tại chùa Long Phước. Tạp chí khởi dịch từ các kinh Ưu Bà Tắc Giới và Quán Vô Lượng Thọ Phật. Hồi ấy phong trào Phật học đã lan rộng cho nên báo Lục Tỉnh Tân Văn tài Sài Gòn cũng mở "Trang Phật Học". Duy Tâm thường lên tiến kêu gọi thành lập một Phật Giáo Tổng Hội để thống nhất tổ chức Phật Giáo Việt Nam. Từ cuối năm 1937 trở đi, trong số nào Duy Tâm cũng có bài bàn về vấn đề thành lập Phật Giáo Tổng Hội. Hội Lưỡng Xuyên Phật Học có nhiều liên lạc thân hữu với hội An Nam Phật Học và với sơn môn Thừa Thiên. Năm 1936, hội gửi bốn học tăng xuất sắc ra học trường Sơn Môn Phật Học(31). Năm 1939 lại gởi ra thêm sáu vị nữa(32). Trường của hội bị đóng cửa trong mấy tháng vì thiếu tài chính, sau nhờ có một nữ cư sĩ ở Đa Kao là bà Thái Văn Hiệp pháp danh là Chân Nhật nhận trợ cấp bảy mươi lăm đồng một tháng cho nên mới mở cửa lại được. Lúc bấy giờ học tăng Hiển Thụy ra Huế học tốt nghiệp. Ông trở vào trường Lưỡng Xuyên cũng mời thêm các thiền sư Mật Thể và Như Ý từ Thừa Thiên vào để phục lực giảng dạy Phật pháp. Nhưng đến cuối năm 1941, trường lại bị đóng cửa vì thiếu tài chính, và hội Lưỡng Xuyên Phật Học chỉ còn đủ sức duy trì những lớp tiểu học tại các chi hội địa phương như Sa Đéc, Phú Nhuận và Kế Sách. Những liên hệ giữa hội Lưỡng Xuyên Phật Học và Nam Kỳ Nghiên Cứu Phật Học không được tốt đẹp. Trần Nguyên Chấn vì không ưa sự hiện diện của hội Lưỡng Xuyên, nên đã có lần kích bác hội và tạp chí Duy Tâm trên báo Từ Bi Âm. Tạp chí Tiếng Chuông Sớm xuất bản tại Hà Nội trong số 16 ra ngày 24.1.1936 có đăng một bức thư ngỏ gửi ông Trần Nguyên Chấn về việc Từ Bi Âm bài bác hội Lưỡng Xuyên Phật Học, khuyên ông Chấn chấm dứt những hành động này. Bức thư do vị trú trì một ngôi chùa tên là Bảo Long tại Takeo Nam Kỳ ký tên(33). Năm 1934, thiền sư Khánh Hòa lui về chùa Vĩnh Bửu ở Bến Tre. Tuy đã già yếu, ông vẫn tổ chức được một Phật học đường cho ni chúng. Đây là trường học đầu tiên cho ni giới tại Nam Kỳ. Năm 1947, ông về chùa Tuyên Linh cũng ở Bến Tre, và viên tịch ở đây vào ngày mười chín tháng sáu âm lịch. Ông thọ bảy mươi tuổi. Năm 1955, thiền sư Huệ Quang, người đồng chí thân cận của ông, lúc bấy giờ đang làm pháp chủ của Giáo Hội Tăng Già Nam Việt, hướng dẫn một phái đoàn đến chùa Tiên Linh và họp cùng môn đồ của chùa, làm lễ trà tỳ linh cốt của ông. Đó là vào ngày 11 tháng ba âm lịch. Tro và xá lợi của ông được tôn trí tại chùa Tuyên Linh. Trong suốt hai mươi lăm năm trời, Khánh Hòa luôn luôn hăng hái trong công nghiệp phục hưng Phật giáo. Đường lối của ông là một đường lối ôn hòa. Ông thường tránh những cuộc bút chiến và tranh luận. Ông sống rất giản dị. Lúc gần tịch diệt, ông căn dặn chỉ nên tẫn liệm ông với bộ y hậu vải thường, không được dùng vải lụa, không được làm long vị sơn son thếp vàng. Các đồng chí của ông như Huệ Quang, Khánh Anh và Pháp Hải đều rất quý mến ông.
Về
các thiền sư Huệ Quang và Khánh Anh, ta sẽ có dịp nói tới
trong một chương sau. Ở đây ta phải nhắc tới thiền sư
Pháp
Hải, một người đã từng triệt để tùy hỷ và ủng
hộ công trình của Khánh Hòa. Pháp Hải sinh năm 1895 tại làng
Thong Dong ở Sa Đéc, tên đời là Nguyễn Văn An, xuất gia năm
mười bảy tuổi, hòa thượng chùa Tây Hưng tịch, ông đều
cầu học với hòa thượng chùa Long Phước, Vĩnh Long. Năm
hai mươi tám tuổi, ông trú trì chùa Phước Sơn ở quận Trà
Cú tỉnh Trà Vinh. Năm 1933 và 1934, ông đảm trách việc giảng
dạy cho Liên Đoàn Học Xã do Khánh Hòa tổ chức tại các
chùa Long Hòa, Thiên Phước và Viên Giác. Khi hội Lưỡng Xuyên
Phật Học thành lập, ông nhận chức vụ trú trì chùa Long
Phước, trụ sở của hội đồng thời ông cũng làm giáo sư
cho Phật học đường Lưỡng Xuyên. Sáu năm sau, ông nhận
lời về trú trì chùa Hiệp Châu ở Sóc Trăng để hướng
dẫn Phật sự cho chi hội Kế Sách của hội Lưỡng Xuyên
Phật Học. Bốn năm sau, ông trở lại chùa Long Phước. Sau
khi Giáo Hội Tăng Già Nam Việt được thành lập tại chùa
Ấn Quang Sài Gòn (1951), ông được mời ra làm trị sự trưởng
cho Giáo Hội tại Vĩnh Long. Ông mất năm 1961 vào ngày mồng
sáu tháng Tám âm lịch, hưởng thọ sáu mươi sáu tuổi.
Cộng
tác với Khánh Hòa còn có nhiều vị cơ sở hữu tâm, phần
lớn đều xuất phát tại Trà Vinh, trong đó ta phải kể các
ông Phạm Văn Liêu, Nguyễn Văn Khỏe và Phạm Văn Luông. Ngoài
ra còn có các ông Nguyễn Văn Thọ (mà sau này xuất gia có
pháp hiêu là Trường Lạc, từng phiên dịch và sáng tác nhiều
tài liệu Phật học), Huỳnh Thái Cửu, Ngô Trung Tín, Trần
Văn Giác, Thái Phước, Thái Khánh, Lữ Long Giao, Trần Thến
và Nguyễn Văn Nhơn. Chủ bút Duy Tâm Trần Huỳnh là
một cư sĩ có kiến thức Phật học khá sâu sắc, đã soạn
được nhiều tài liệu giao khoa Phật học như bộ Phật
Học Giáo Khoa Thư (hai cuốn), và phiên dịch nhiều kinh
điển Hán tự ra quốc văn, đóng góp rất đáng kể cho công
trình phổ thông hóa Phật học tại Nam Kỳ.
Tới
đây tưởng nên nhắc tới một vị cao tăng đồng thời với
thiền sư Khánh Hòa: Thiền sư Chí Thành mà thiền sư
Khánh Anh cho là thuộc hạng "chân tu bậc nhất". Thiền
sư Chí Thành sinh năm 1861 tại Quảng Nam. Ông là cháu nội
của Hộ quốc công Nguyễn Công Thành dưới triều Tự Đức.
Sau khi phong trào Văn Thân khởi nghĩa thất bại ở miền Trung,
ông vào xuất gia tại chùa Giác Viên ở Chợ Lớn đó là vào
năm 1880, ba năm tròn chuyên làm những công quả như gánh nước
bửa củi, giã gạo. Sau đó ông nhập thất và tịnh khẩu,
nghĩa là không nói, trong vòng ba năm nữa.
Năm
1982, ông tổ chức cứu trợ nạn nhân bão lụt tại Gò Công,
Trận Nhâm thìn này đã tiêu diệt tới 16.000 người. Một
mình ông đi thu thập được năm mươi thi hài nạn nhân, đem
khâm liệm, mai táng và tụng kinh siêu độ. Đến năm 1895,
ở Châu Đốc lại bị thủy tai. Ông đốc suất ghe xuồng
ra cứu vớt được hưon 500 người và cho về chùa, nuôi cho
đến khi nước rút. Trong mười hai năm, ông tịch cốc, chỉ
ăn rau trái.
Sau
đó bị mật thám pháp nghi ngờ làm quốc sự, ông bị bắt
giam và bị cầm giữ mười tháng.
Năm 1927 ông chứng minh lễ khai giảng lớp tăng học chùa Giác Hoa ở Sóc Trăng, và năm 1929, chứng minh giới đàn chùa Trùng Khánh, Phan Rang. Phần lớn hành tung của thiền sư Chí Thành còn nằm trong vòng bí mật. Trong thời gian hành đạo tại chùa Giác Viên, không ai biết ông xuất thân nhà quyền quý và là người có học. Tại Châu Đốc, suốt mấy chục năm trời, người chung quanh không ai biết ông là người có học thức. Thiền sư Phổ Huệ ở chùa Tịnh Lâm Bình Định có vào thăm và ở lại chùa Phi Lai một tháng. Khám phá con người thật của Chí Thành, ông làm bài thơ sau đây để tán dương: Đương thế Phi Lai chân đạo tôn Chí Thành khí sắc cổ phong tồn Phong lưu bất tẩy tâm thường tịnh Diệu nghĩa năng tham tự tính dung Vân khứ vân lai vô trú trước Hoa khai hoa tạ tổng thành không. Phong quang hảo cực tư thời tặng Sạ nhược linh san lạc bất ung. Ngư Khê tống Tinh Trai ở Vĩnh long cũng làm bài thưo thặng thiền sư như sau: Phi kinh trượng cước xả phàm chân Y bát tương truyền bản tính chân Đại đức quảng khai thanh tịnh lộ Chí Thành phổ hóa hải sơn nhân Kim thân tố hội liên hoa tọa Ngọc điện huy hoàng động vũ tân Công đức khả gia xưng bồ tát Thanh
sơn bất lão biến từ vân.
Bất
mãn với hội Nam Kỳ Nghiên Cứu Phật Học và bất mãn luốn
với đường lối hoạt động của thiền sư Khánh Hòa mà
ông cho là ôn hòa đến mức thụ động và cổ hủ, Thiện
Chiếu đi tìm con đường khác. Nhưng ở đâu ông cũng gặp
những phần tử bảo thủ. Lúc đó ông về chùa Hưng Long ở
Ngã Sáu Chợ Lớn. Sau những va chạm liên tiếp, ông phẫn
chí bỏ luôn chùa Hưng Long, cởi áo tu, về ở nhà một người
bạn ở Gò Vấp tên là cư sĩ Thuần Viên. Đến năm 1936, ông
tìm về Rạch Giá với thiền sư Trí Thiền, ngày trước đã
từng cộng tác với Khánh Hòa và hội Nam Kỳ Nghiên Cứu Phật
Học và đề ngh ị Trí Thiền thành lập một tổ chức Phật
Giáo thật sự tiến bộ. Cuối cùng họi Phật Học Kiêm
Tế được thành lập tại Rạch Giá, lấy chùa Tam Bảo
ở làng Vĩnh Thanh Vân làm trụ sở. Điều lệ của hội Phật
Học Kiêm Tế được phê chuẩn vào ngày 23.3.1937. Thiền sư
Trí Thiền tức Nguyễn Văn Đồng làm chánh tổng lý của hội.
Hai chức vụ phó tổng lý được hai vị Nguyễn Văn Ngọ (trú
trì chùa Thập Phương) và Ngô thành Nghĩa (trú trì chùa Phước
Thanh) đảm nhiệm. Tạp chí Tiến Hóa cho ra số đầu
vào ngày đầu năm năm 1938; Phan Thanh Hà đứng tên chủ bút.
Thiện Chiếu không giữ chức vụ nào trên mặt giấy tờ cả;
ông chỉ làm việc phía sau. Những bài trên Tiến Hóa
do ông viết được ký tên bằng bút hiệu. Chủ nhiệm của
Tiến
Hóa là ông Đỗ Kiết Triệu.
Danh
từ Phật Học Kiêm Tế nói lên ý hướng của những
người chủ trương: đây không phải là một cái hội để
chỉ học Phật mà còn là một cái hội để hực hành
kinh ban tế thế nữa. Danh từ Tiến Hóa cũng nhằm
nói lên lập trường tiến bộ của hội. Ngay sau khi hội thành
lập, một Viện Mồ Côi được tổ chức tại chùa Tam Bảo.
Tạp
chí Tiến Hóa số ra mắt đã đăng hình cô nhi viện
này, một cô nhi viện có thể gọi là cô nhi viện Phật giáo
đầu tiên tại Việt Nam tổ chức theo kiểu Tây phương. Tiến
Hóa số 1 cũng đăng hình hội Phật Học Kiêm Tế cứu
trợ nạn nhân bão lụt tại Rạch Giá và cho biết rằng hội
đã nuôi ăn từ 200 đến 300 nạn nhân bảo lụt tại trụ
sở của hội trong thời gian hai tháng. Hình chụp ngày 26.9.1937.
Ngoài chủ ý muốn chứng minh rằng hội Phật Học Kiêm Tế
không phải là hội "chịu nói suông", Tiến Hóa lại
tuyên bố rằng tờ báo không những sẽ "tuyên truyền"
cho Phật học mà còn ‘tuyên truyền" cho "bất cứ học
thuyết nào có đủ phương pháp làm chúng sanh khỏi khổ được
vui". Theo Tiến Hóa, những học thuyết nào có tính
cách từ bi bác ái thì đều được Tiến Hóa công nhận là
"Phật pháp" cả(34).
Ký
giả Trầm Quân của Tiến Hóa giữ mục triết học thường
thức. Bắt đầu từ số 1 ông viết về đề tài "Triết
học là gì?". Trong số 4, ông đã trình bày Duy Vật Biện
Chứng Pháp. Từ các số 6 trở đi, ông phê bình những
hình thức khác nhau của Duy Tâm Luận.
Đứng
về phương diện lý thuyết. Tiến Hóa chủ trương những
điểu sau đây:
1- Người Phật tử mới phải có sự giác ngộ mới. Những sự giác ngộ mới này do các khoa học khám phá. Người Phật tử phải học khoa học để biết rằng không có cõi Cực Lạc ở phương Tây và cũng không hề có Thiên Đường cùng Địa Ngọc. Phải học kinh tế học để biết rằng quan niệm giàu nghèo tại mạng là sai, rằng những đau khổ của con người là do những chế độ chính trị đè nén và những cuộc khủng hoảng kinh tế, chứ không phải do một vị thần linh ban phúc giáng họa. 2- Phật Thích Ca chỉ là bậc "sáng suốt hoàn toàn" trong thời đại của Ngài mà thôi. Bây giờ cái biết của nhân loại đã trở thành rộng lớn; phải nắm hết tất cả những cái biết về các khoa học ngày nay thì mới được gọi là Phật. Về địa lý chẳng hạn, ngày xưa Phật chỉ biết được địa dư trong nước Ấn Độ, ngày nay ta có thể học để biết được địa dư cả thế giới. Chữ "Phật" bây giờ phải được hiểu là tổng thể những hiểu biết của các ngành khoa học chứ không thể hiểu theo nghĩa một cá nhân giác ngộ. Phật đã từng nói: "Chúng sinh chưa thành Phật thì ta không thể thành Phật". Câu nói này theo Tiến Hóa, "chứng tỏ rằng đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã nói thật với chúng ta rằng dầu cá nhân có sáng suốt đến bực nào cũng chưa phải hoàn toàn sáng suốt" và "tri thức của Phật hồi thời đại ấy không bằng tri thức của toàn thể nhân loại sau này"(37). Những chủ trương trên kia cho thấy lập trường rất mới mẻ và táo bạo của hội Phật Học Kêm Tế nhưng đồng thời cũng chứng tỏ rằng gốc rễ Phật học của các lý thuyết gia Tiến Hóa chưa sâu vững. Đã đành rằng cái khổ của sự nghèo đói là một phần là do sự thiếu học và sự bóc lột kinh tế, nhưng hai nguyên do đó không phải là những nguyên nhân duy nhất, đành rằng "Phật" có nghĩa là hiểu biết nhưng cái hiểu biết ở đây không phải là những tri thức chất chứa do sự học hỏi, mà là cái biết của thật trí bát nhã giải phóng được tâm hồn người. Đã đành rằng muốn cải tạo xã hội thì phải cải tạo "cảnh’, nhưng theo đạo Phật "cảnh" là một phần của tâm, bởi vì "tâm cảnh bất nhị". Cái ý thức mà Tiến Hóa cho là tâm ấy chỉ là một trong những tác dụng phân biệt của tâm mà thôi. Với lại làm sao cải tạo "cảnh" nếu không có được nhận thức chín chắn về ý hướng và đường lối cải tạo? Ưu điểm của lập trường Tiến Hóa là sự chú trọng tới hành động. Tiếc thay, Tiến Hóa đã không tạo được một con đường thức hiện có căn cứ vững chãi trên nguồn trí tuệ giác đạo Phật. Thay vì sáng tạo một con đường tranh đầu bất bạo động lấy lực lượng đông đảo của Phật giáo làm hậu thuẩn, thì Tiến Hóa mượn con đường tranh đấu bạo động của chủ nghĩa Mác Lê Nin. Phù hợp với lập trường này, ký giả Giác Tha liên tiếp kêu gọi "thủ tiêu hình thức và tinh thần tôn giáo của Phật giáo",(38) hủy bỏ tất cả những kinh sách và những tập quán có khuynh hướng hữu thần và yếm thế. Trong số các kinh sách này có kinh Địa Tạng Bổn Nguên. Ngay từ số 2 (tháng Hai 1938) Tiến Hóa đã kích bác các báo Pháp Âm và Duy Tâm vì đã dịch đưng kinh địa Tạng. Theo Tiến Hóa, kinh này có một nội dung hoang đường, trái hẳn với căn bản nghĩa của đạo Phật. Về vấn đề Tăng sĩ, Tiến Hóa chủ trương hủy bỏ truyền thống tăng sĩ "đầu trọc áo vuông", theo gương phái tân tăng ở Nhật Bản Tomomatsu (Hữu Tùng Viên Đế) tại Sài Gòn, thấy ông sư trẻ tuổi này nói được nhiều ngoại ngữ, tính tình bặt thiệp, có tân học, biết tuyên bố tư tưởng mới với báo chí... ký giả Tự Giác rất lấy làm khâm phục. Ông khuyên "từ rày về sau, người tu Phật nên bỏ hẳn cái lối đầu trọc áo vuông, theo gương các sư Nhật". Ông thêm: "Nhưng ai có muốn ăn chay hay độc thân thì tùy ý"(40). Những bài báo nói trên của Tự Giác và Giác Tha đã khiến cho Từ Bi Âm lên tiếng(41) rằng Tiến Hóa là một tạp chí Cộng Sản và thân Nhật. Tiến Hóa phủ nhận điều này. Giác tha nói đến tình trạng Phật giáo trong hai nước Hoa-Nhật, đến cảnh tự viện bị tàn phá bởi bom đạn, đến tăng sĩ hai nước bị động viên vào quân ngũ và kêu gọi gấp rút triệt để cải cách Phật giáo để tránh cho Phật giáo "cái họa diệt vong". Ông ca ngợi tám mươi nhân vật Phật giáo Nhật vì hành động chống chiến tranh mà bị chính phủ Nhật bắt giam. Ông đọc được tin này ở Tân Hoa Nhật Báo ra ngày 2.6.1938. Báo Đông Pháp ra ngày 13.111.1937 lại đăng tin một vị tăng sĩ Trung Hoa là Liễu Như cùng một số tăng gia nhập phong trào kháng chiến giải phóng dân tộc nhằm đánh đuổi quân Nhật về nước. Giác Tha nói đến các vụ này trong bài Tinh Thần Vô Úy Của Phật Giáo, và mong rằng Phật tử Việt Nam phải hăng hái nhập thế trong tinh thần ấy.
Việc
thiền sư Liễu Như lãnh đạo một số tăng sĩ gia nhập chiến
khu chống Nhật đã có ảnh hưởng lớn trên đường lối
hoạt động của hội Phật Học Kiêm Tế. Vào khoảng cuối
năm 1939, chùa Tam Bảo bị đóng cửa, thiền sư Trí Thiền
bị bắt và đày đi Côn Đảo. Các vị cộng sự của ông
đều bị bắt. Thiện Chiếu nhờ may mắn trốn được về
Sài Gòn.
Vai
trò của Thiện Chiếu trong hội Phật Học Kiêm Tế đã rõ
ràng, nhưng Thiện Chiếu đã chuyên về lý thuyết nhiều hơn
là hành động. Chính Trí Thiền và các người đồng chí của
ông đã chấp trì phần thực hành.
Thiền
sư Trí Thiền, tên tục là Nguyễn Văn Đồng, sinh năm 1882
tại Rạch Giá. Ông xuất gia tại chùa Tam Bảo ở Rạch Giá.
Chưa biết bổn sư của ông là ai và ông đã được học Phật
tại chùa nào. Ông thuyết pháp rất dễ hiểu và rất trôi
chảy. Ngoài việc trùng tu chùa Tam Bảo, ông còn tạo lập
được chùa Tam Bảo Từ Tôn tại Sóc Xoài cách Rạch Giá chừng
mười lăm cây số và một ngôi chùa chưa rõ tên ở Hòn Quéo,
một hòn đảo sát ven biển Vịnh Xiêm La, không xa Sóc Xoài
là mấy. Ông đã bắt một cây cầu đúng một trăm nhịp từ
bán đảo Hòn Me ra tới Hòn Quéo.
Năm
1932, lúc làm cố vấn cho hội Nam Kỳ Nghiên Cứu Phật Học
ông đã năm mươi tuổi. Ông rất tán đồng lập trường tiến
bộ của Thiện Chiếu, và vui lòng xem Thiện Chiếu là một
người đồng chí. Trong thời gian vận động xin phép thành
lập hội Phật Học Kiêm Tế, ông được tiếp xúc với đồng
chí của ông Vũ Ngọc Hoành từ Sa Đéc tới (Ông Vũ Ngọc
Hoành là nho sĩ trong phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục, có cử
nhân Hán học, bị thực dân pháp giam lỏng tại Sa Đéc). Đây
là một trong những lý do khiến cho chùa Tam Bảo trở thành
một căn cứ kháng chiến bí mật. Chính Thiện Chiếu và những
người đồng chí của ông đã đem đường lối xã hội chủ
nghĩa tới cho căn cứ này. Để tỏ hết lòng ủng hộ đường
lối của hội Phật Học Kiêm Tế, Trí Thiền đã làm giấy
cúng hết chùa chiền và tài sản của chùa cho Hội.
Những
người cộng sự của Trí Thiền và Thiện Chiếu là ai, ngoài
một vị tăng sĩ tên là Thiện Ân bị bắt trong năm 1939, ta
hiện chưa sưu khảo được. Tiến Hóa số 1 có đăng
một danh sách của ban Trị Sự hội Phật Học Kiêm Tế, trong
đó những vị sau đây phục trách về giảng dạy tại chùa
Tam Bảo, có thể cũng đã bị bắt một lần với Trí Thiền:
Phan Thanh Hà, Lê Văn Các, Nguyễn Văn Phò, Lê Văn Điệu, Nguyễn
Minh Được, Giang Minh Xinh.
Khi chùa Tam Bảo bị đóng cửa, ít ai dám nói "chuyền tai" về vụ này, và ở Rạch Giá bây giờ ít người biết nhiều chi tiết về vụ chùa Tam Bảo. Năm 1945 có người từ Côn Đảo về cho biết thiền sư Trí Thiền đã chết vì bệnh tại Côn Đảo. Sau Cách Mạng Tháng Tám, chùa Tam Bảo mới được mở cửa trở lại và một lễ cầu siêu lớn đã được tổ chức tại chùa để cầu nguyện cho Trí Thiền và các đồng chí của ông.
Trốn
được về Sài Gòn, Thiện Chiếu bỏ hẳn việc theo đuổi
phụng sự Phật giáo mà chỉ tiếp tục hoạt động cho cách
mạng chống pháp. Năm 1940 ông tham dự vào phong trào Nam
Kỳ Khởi Nghĩa ở Hốc Môn, Bà Điểm. Năm 1942, ông bị
mật thám Pháp bắt được, đày đi Côn Đảo. Ông bị tra
tấn đến bại xuội. Sau Cách Mạng Tháng Tám 1945, ông được
trở về đất liền. Trong thời kháng Pháp ông làm Tỉnh ủy
tỉnh Gò Công. Năm 1954, ông đi tập kết ra Bắc. Năm 1956,
ông làm ở Viện Triết Học Ủy Ban Khoa Học Xã Hội. Năm
1965 ông về hưu trí,.Ông mất ở Hà Nội ngày 6 tháng Bảy
âm lịch (năm 1974) thọ 76 tuổi.
Thiện
Chiếu là một người đầy nhiệt huyết, vừa yêu mến đạo
Phật vừa có lý tưởng cách mạng. Tiếc là ông đã không
tìm được con đường khác để có thể sử dụng được
tiềm lực của đạo Phật và đi xa hơn. Tay hãy đọc những
dòng sau đây mà ông viết hồi ông còn bắt đầu thất vọng
về hội Nam Kỳ Nghiên Cứu Phật Học.
"Đau
đớn thay! Lạ lùng thày! Muốn bênh vực cho rằng Phật giáo
không phải là một đạo mê tín hoang đường, thì sờ sờ
ra đó biết bao nhiêu là việc huyền hoặc dị đoan! Muốn
bào chữa cho Phật giáo không phải là một đạo hữu thần,
thì nhan nhản ra đó cũng cầu xin cũng chuộc tội, có khác
nào những kẻ ỷ lại thần quyền! Muốn khoe Phật giáo là
một đạo cứu đời thì hàng Phật tử {nếu} không
phải chán đời mà lên non ẩn dạng ắt cũng ích kỷ chỉ
lo quanh quẩn trong gia đình, chớ không biết gì đến công
ích xã hội cả! Muốn nói Phật giáo là đạo thoát khổ,
thì
người có theo đạo có làm đạo cũng buồn rầu khiếp sợ,
cũng theo hoàn cảnh mà đổi dời, cũng cực khổ lầm than,
chỉ cứ trông đợi kiếp sau chớ không biết ra tay mà cải
tạo! Như vậy bảo sao Phật giáo không tiêu diệt theo các
tôn giáo trước khi thế giới đại đồng cho được? Thế
thì người có nhiệt tâm với nhân loại quần sanh - phải
lo tìm phương bổ cứu, duy trì, hay chỉ khoanh tay ngồi ngó
và than vắn thở dài mà thôi?
"Nếu
thiệt có lòng muốn bổ cứu, duy trì Phật giáo là một chiếc
thuyền tế độ ở giữa biển khổ sông mê, không nỡ để
cho tiêu diệt theo các tôn giáo khác, thì chẳng những giáo
hội (hay hạng người xuất gia), phải nghiên cứu Phật giáo,
phát dương những ý hay nghĩa lạ ra cho thích hợp với chỗ
nhu yếu của nhơn sanh, dẹp bỏ hết các việc mơ hồ trái
lẽ, chớ quá chấp nê theo hủ tục, mà tín đồ (hay hạng
người tại gia) cũng phải làm cho tròn cái bổn phận của
một người tín ngưỡng Phật giáo, một cách chơn chánh, cũng
phải kiểu chánh lại những chỗ sai lầm của Giáo Hội (vì
Giáo Hội hiện thời là một Giáo Hội hư hèn, không có trật
tự), chớ nên vì ý riêng, vì tình cảm mà chia phe lập đảng,
tin bướng theo càn. Được như vậy thì cái yến sáng Phật
giáo mới mong chói lọi ở Đại Đồng thế giới sau này"(42).
Những
giòng trên ông viết vào ngày 1.4.1932, nghĩa là chỉ đúng một
tháng sau ngày ra đời của tạp chí Từ Bi Âm. Lúc ấy
ông cư trú tại chùa Hưng Long ở quận IV thành phố Chợ Lớn.
Ông không đồng ý với cách thức và tinh thần làm việc của
những người như Trần Nguyên Chấn đã đành, ông lại bất
mãn cả với thiền sư Khánh Hòa và những vị khác lúc ấy
đang cộng tác với Nam Kỳ Nghiên Cứu Phật Học như Bích
Liên và Liên Tôn nữa. Trong số các vị tôn túc có mặt, ông
chỉ mến chuộng một người là thiền sư Trí Thiền, lúc
ấy làm cố vấn cho hội Nam Kỳ Nghiên Cứu Phật Học, mà
ông cho là tri kỷ. Ông cho rằng cái cách "nghiên cứu" của
hội Nam Kỳ Nghiên Cứu Phật Học không phải là thứ "nghiên
cứu" đúng đắn. Ông viết: "Nói rằng nghiên cứu
là phải lấy phương pháp thiệt nghiệm của khoa học
làm căn bản, lấy sự thiệt trên lịch sử làm chứng
cứ, thì mới có thể phát huy được nghĩa mầu trong sách
Phật, và mới tránh khỏi những sự hoang đường vô lý của
người sau thêm vào, chớ không phải cứ theo sách mà dịch
càn rồi cũng xưng là Nghiên Cứu Phật Học! Và phải
làm thế nào cho tín đồ có sự hiểu biết thông thường
về Phật giáo thì người ta mới biết cái bổn phận của
người tại gia, mới biết chỗ sai lầm của Giáo Hội"(43).
Chữ Giáo Hội mà Thiện Chiếu vừa dùng có nghĩa là giới tăng sĩ. Quan niệm về nghiên cứu của ông là một quan niệm đúng đắn, nhưng đứng trong hoàn cảnh ấy, ông rất đơn thương độc mã, vì vậy không ai nghe lời ông và ông không hề đóng góp một bài nào cho tạp chí Từ Bi Âm. Nhất quyết bất hợp tác với hội Nam Kỳ Nghiên Cứu Phật Học, ông trở về biên soạn những cuốn sách về Phật học mà ông tự xuất bản lấy với sự ủng hộ của một số các bạn ông, trong đó có các ông Phạm Đình Vinh, Nguyễn Văn Thiện và cố nhiên là Thích Trí Thiền. Ông viết và in trên mười cuốn sách. Trong số các sách ấy, có sách bán mà cũng có sách tặng. Những người nào mua sách thì gửi tiền về chùa Hưng Long, những người nào hảo tâm muốn ấn tống kinh sách thì gửi tiền về cho Nguyễn Văn Đồng tức là thiền sư Trí Thiền ở chùa Tam Bảo Rạch Giá. Sách của ông rất được giới công, tư chức có tân học rất hoan nghênh. Tuy vậy theo các tạp chí Viên Âm và Duy Tâm thì các sách này chưa chín chắn và đúng mức. Sự thực cũng có như vậy, bời vì ông đã căn cứ trên sách vở Tây phương hơn là điển tịch Đông phương để sáng tác và dịch thuật. Ông đã căn cứ hơi nhiều trên những sáng tác và những bản dịch ngoại ngữ. Tìm kiếm mãi mà không gặp được người đồng chí, và va chạm mãi với những phần tử bảo thủ và lạc hậu trong giới tăng sĩ, ông trở thành bất đắc chí, liền cởi bỏ áo tăng sĩ của mình. Năm 1936 ông về Rạch Giá, ở lại chùa Tam Bảo, và cùng Trí Thiền vận động thành lập hội Phật Học Kiêm Tế. Lúc này ông đã hoàn toàn bất mãn với tất cả hội Phật giáo. Ông muốn làm một cái gì thật khác biệt, thật tiến bộ. Hội Phật Học Kiêm Tế đã tổ chức rất khôn khéo. Tuy tư tưởng và hành động của hội có tính chất tả khuynh, hình thức của hội được hóa trang rất kỹ. Ta thấy trong những chức vụ quan trong của hội những nhân vật có tính cách bảo thủ như Tông Quang Huy, đốc phủ sứ hồi hưu; Đỗ Khôn Mậu, đại thương gia; nguyên đại thương gia; Nguyễn Đức Huệ, nghiệp chủ; Đỗ Kiết Triệu, đốc phủ sứ hồi hưu; Huỳnh Văn Yến, đốc học; Nguyễn Văn Phụng, thương gia v.v... Nhiều người trong số này dã bật ngữa khi hành tung cách mạng của hội bị Nhà nước Lang Sa phát giác. Nếu hội Nam Kỳ Nghiên Cứu Phật Học đại diện cho phái cực hữu của phong trào chấn hưng Phật giáo thì hội Phật Học Kiêm Tế có thể được nhận địch là đại diện cho phái cực tả của phong trào. Thiện Chiếu tên đời là Nguyễn Văn Sáng (có lúc thì tên Nguyễn Văn Tài). Ông có bí danh là Xích Liên "bông sen đỏ". Ông sinh năm 1898 tại Gò Công. Hồi tám tuổi ông đã được theo hầu ông nội, hồi đó là thiền sư Huệ Tịnh trú trì chùa Linh Tuyền ở xã Long Hựu, tỉnh Gò Công. Thiền sư Huệ Tịnh rất tinh thâm nho học. Thiện Chiếu học chữ Nho rất mau chóng và lúc 12 tuổi đã có thể "trùng tuyền" Sa Di Luật Giải một cách thông thạo. Từ năm 16 tuổi ông đã đọc được văn quan thoại, và tuy chỉ tự học, ông cũng đọc được sách Pháp dù ông nói tiếng Pháp không trôi chảy. Năm 21 tuổi ông lên Sài Gòn để tìm học thêm và đến năm 1926 về làm trú trì chùa Linh Sơn ở số 146 Douaumont Sài Gòn. Tại Sài Gòn ông được đọc nhiều tân thư của Trung Hoa và biết nhiều về những biến chuyển về chính trị và tôn giáo tại Trung Quốc. Ông được đọc Duy Vật Biện Chứng Pháp trong tân thư bạch thoại. Ông được làm quen với thiền sư Khánh Hòa vào khoảng năm 1926. Ông qua đời năm 1974 tại Hà Nội, thọ 76 tuổi. Những chi tiết trên về cuộc đời Thiện Chiếu do thiền sư Hiển Chơn, một cao đệ của thiền sư Khánh Hòa cung cấp. Theo thiền sư Hiển Chơn, Thiện Chiếu có ba người con. Người con lớn là Nguyễn Văn Đức đã cùng cha đi tập kết ra Bắc năm 1954. Hai người còn lại ở với mẹ, một người làm y sĩ quân đội miền Nam và một người làm giáo sư Anh văn. Bà sương phụ vẫn còn sống tại Phú Nhuận, Gia Định. Cũng theo thiền sư Hiển Chơn, trong thời gian ở Bắc, Thiện Chiếu đã tỏ ra bất mãn {...}, khi thấy có những người không thực sự muốn cho Phật giáo phát triển {...}. Ngoài Phật Học Vấn Đáp và Phật Hóa Tân Thanh Niên, Thiện Chiếu còn viết các tập Cái Thang Học Phật, Phật Học Tổng Yếu, Phật Pháp là Phật Pháp, Tranh Biện, Tôn Giáo, và Tại Sao Tôi Cám Ơn Đạo Phật. Ông còn dịch Kinh Lăng Nghiêm, Kinh Pháp Cú, Phật Giáo Vô Thần Luận của thiền sư Thái Hư ở Trung Quốc. Tất cả các sách này đều đã được xuất bản tại Sài Gòn.
Không
phải chỉ có hội Phật Học Kiêm Tế và tạp chí Tiến
Hóa là tổ chức có màu sắc thiên tả duy nhất. Ở Nam
Kỳ hồi ấy còn có hội Tịnh Độ Cư Sĩ, và tạp chí
Pháp
Âm do hội xuất bản cũng là một tổ chức đã từng bày
tỏ lập trường thiên tả. Trong hội này có những cư sĩ
cùng thế hệ với Thiện Chiếu, trong số đó có những người
là bạn của ông như các ông Phan Hiền Đạo và Phạm Đình
Vinh. Hội Tịnh Độ Cư Sĩ được thành lập sớm hơn
hội Phật Học Kiêm Tế và tạp chí Pháp Âm ra đời
sớm hơn Tiến Hóa đúng một năm. Thiện Chiếu không
viết bài báo này, có lẽ là vì trong những số đầu, Pháp
Âm không có lập trường mạnh dạn và dứt khoát như ông
mong muốn. Nhưng từ số 7, Pháp Âm lấy lập trường
ủng hộ đường lối phục hưng của các tổ chức Phật giáo
lúc bấy giờ. Ký giả Đông Giao (tháng Bảy 1937) lên
án các hội là chỉ chú trọng tinh thần mà bỏ quên thực
tế, chỉ biết nghỉ về vị lai mà bỏ quên hiện tại, chỉ
nói suông mà không biết thực hành(44).
Các cây bút Ngộ Không và Quốc Tri cũng lên tiếng chủ trương
rằng chấn hưng Phật giáo phải nhằm vào mục đích "gây
thành một thế lực mà ứng phó với thời cơ" (45),
rằng sở dĩ các hội Phật giáo không được quần chúng ủng
hộ mạnh mẽ là tại vì "đi trái với nhu cầu của nhân
loại"(46).
Từ số 13 trở đi, Pháp Âm lên tiếng ủng hộ lập
trường của Tiến Hóa. Hội Tịnh Độ Cư Sĩ vốn
là hội của những người cư sĩ tu theo Tịnh Độ Giáo: đối
với hội, sự có mặt của tu sĩ không cần thiết mấy, vì
vậy Pháp Âm đã "hết sức ủng hộ việc bỏ cái
lối đầu trọc áo vuông" do Tiến Hóa đề nghị. Pháp
Âm viết: "Hòa Thượng Huệ Đăng chùa Thiên Thai Bà Rịa,
hòa thượng Từ Phong chùa Giác Hải Chợ lớn, sự cụ Đỗ
Văn Hỷ chùa Bà Đá v.v... đối với Phật giáo thế giới
có ảnh hưởng bằng các vị "thế gian" như Âu Dương Kiến
Vô, Dương Nhân Sơn, Khang Hữu Vi, Lương Khải Siêu, Sylvain
Lévi, Rhys David không?"(47).
Pháp
Âm lại hô hào "thủ tiêu chế độ của riêng" trong
nhà chùa, kêu gọi chư tăng "theo gương hòa thượng Nguyễn
Văn Đồng trú trì chùa Tam Bảo cúng hết chùa và tài sản
cho hội Phật Học Kiêm Tế.
Hội
Tịnh
Độ Cư Sĩ đặt cơ sở ở chùa Tân Hưng Long, xã Phú Định,
Chợ Lớn, dựa bên đường Rạch Cát. Tuy không có hội viên
tăng sĩ nhưng hội đã tôn một tăng sĩ tên là Minh Trí làm
tông sư chứng minh. Chủ nhiệm Pháp Âm là ông Lê Văn
Hậu, chủ bút là Trần Quỳnh, người đã từng cộng tác
với tạp chí Duy Tâm của hội Lưỡng Xuyên Phật Học(48).
Phạm
Đình Vinh, một cộng tác viên của Pháp Âm, cũng như
Thiện Chiếu đã chấp nhận đường lối phục hưng Phật
giáo theo tinh thần xã hội chủ nghĩa. Ngày 15.8.1937, diễn
thuyết tại trụ sở hội An Nam Phật Học ở Huế về đề
tài "Luân lý của đạo Phật, ông đã tuyên bố: "Luân
lý cũng như nghệ thuật, triết học, pháp luật, tư tưởng,
văn tự, ngôn ngữ.... đều là "ý thức hình thái" (ideologie)
của xã hội mà ta thường gọi là tinh thần văn hóa cũng
phải thay đổi hết. Theo ý tôi thì chỉ có hai cách. Một
là nếu muốn cho xã hội tín ngưỡng và thực hành luân lý
đạo Phật thì phải làm cho công bình, đừng cho ai lợi dụng.
Hai là phải vận động khắp thế giới thủ tiêu hết các
chế độ tài sản tư hữu... mới thực hiện được tinh thần
vô ngã của đạo Phật". Và ông nói rằng cách thứ hai hữu
hiệu hơn(49).
Tạp
chí Viên Âm không hề tường thuật nội dung bài diễn
thuyết có màu sắc biện chứng hay duy vật này.
Sau
khi ra được mười sáu số, tạp chí Pháp Âm đình bản.
Tuy vậy, hội Tịnh Độ Cư Sĩ vẫn tiếp tục hoạt động
cho đến ngày nay. Tại miền Nam, tỉnh nào cũng có chùa của
hội, nhất là tại các tỉnh Cần Thơ, Ba Xuyên, An Xuyên và
Gia Định. Phần lớn những chùa này đều có tăng sĩ trú
trì và hướng dẫn nghi lễ tụng niệm. Một trong những công
trình hành đạo đáng kể của các chùa Tịnh Độ Cư Sĩ là
cung cấp thuốc Nam, mỗi chùa mở một phòng thuốc Nam, và
vào rừng hái thuốc. Thuốc hái được đem phơi tại sân chùa
và mỗi thứ được cất giữ trong một hộc lớn. Phòng thuốc
nào cũng biết phối hợp các thứ lá cây này để làm thành
những thang thuốc chữa các bệnh phổ thông như cảm, cúm,
rét rừng, ho, đi tiêu v.v... Hầu hết các chùa Tịnh Độ Cư
Sĩ ở miền quê đều có mở một phòng thuốc như vậy.
Ngoài các tổ chức đã kể, tại Nam Kỳ hồi đó còn có những hội Phật giáo sau đây được thành lập: - Hội Thiên Thai Thiền Giáo Tông Liên Hữu, do thiền sư Huệ Đăng sáng lập năm 1934, trụ sở đặt tại chùa Thiên Thai, Bà Rịa. - Hội Phật giáo Tương Tế do vị trú trì chùa Thiên Phước tên là Lê Phước Chi ở Sóc Trăng sáng lập vào khoảng 1934 Những
hội này không có chi hội tại các tỉnh, không có xuất bản
tạp chí và không có ảnh hưởng gì đáng kể.
Vào
khoảng 1932, tại Sài Gòn cư sĩ Đoàn Trung Còn thành lập một
nhà xuất bản ấn hành thư tịch Phật học bằng quốc ngữ.
Nhà xuất bản này lấy tên là Phật Học Tùng Thư. Phần
lớn những tác phẩm của Phật Học Tùng Thư đều do từ
tay ông trước dịch. Từ năm 1931, ông đã cho ra các sách Chuyện
Phật Đời Xưa, Văn Minh Nhà Phật Qua Tàu, và Triết
Lý Nhà Phật. Những sách này lần đầu được nhà Agence
Saigonnaise de Publicité ấn hành. Tiếp theo, ông cho xuất
bản các sách truyện Truyện Phật Thích Ca (1932), Tăng
Đồ Nhà Phật (1934) và Các Tông Phái Đạo Phật Ở
Viễn Đông (1935). Đoàn Trung Còn là một cư sĩ có tân
học và những sách ông được biên soạn hoặc phiên dịch
thường căn cứ trên những thư tịch Phật giáo Tây phương.
Sách của Đoàn Trung Còn được lưu hành rộng rãi: ở Bắc
Kỳ và Trung Kỳ cũng có nhiều người gửi mua sách của Phật
Học Tùng Thư. Để phổ biến rộng rãi các tác phẩm của
mình. Phật Học Tùng Thư kêu gọi độc giả "phát tâm ấn
tống" nghĩa là mua sách của Phật Học Tùng Thư với giá
đặc biệt để tặng không cho những người muốn học Phật.
Chủ nhiệm của Phật Học Tùng Thư viết:
"...
Trong các việc bố thí, chỉ có bố thí pháp, ấn tống kinh
điển là cao quý hơn hết. Người thí pháp chẳng những được
yên ổn phước lạc nơi nhà cửa họ hàng hiện tại mà cho
đến cửu huyền thất tổ cũng được hưởng phước đức
mà siêu thăng"(50)
Phật Học Tùng Thư đã xuất bản
được 39 tác phẩm, tính đến 1965, và có cuốn đã được
tái bản nhiều lần. ngoài những bản dịch các kinh như Diệu
Pháp Liên Hoa. Na Tiên Tỳ Kheo, Pháp Bảo Đàn, Vô Lượng Thọ,
Quán Vô Lượng Thọ, Địa Tạng, Di Lặc, Bồ Tát Giới, Kim
Cang v.v..., Phật Học Tùng Thư còn xuất bản những sách
như Truyện Phật Thích Ca, Du Lịch Xứ Phật, Đạo Lý Nhà
Phật, Chuyện Phật Đời Xưa, Văn Minh Nhà Phật, Triết Lý
Nhà Phật, Pháp Giáo Nhà Phật, Tăng Đồ Nhà Phật, v.v...
Đáng kể nhất là những tập đầu của bộ Phật Học
Tự Điển (do Đoàn Trung Còn và Huyền Mặc Đạo Nhân biên
soạn) đã được bắt đầu xuất bản. Năm 1965, Phật Học
Tùng Thư đã cho ấn hành Yến Sáng Á Châu, bản dịch
bằng thơ lục bát của tác phẩm
The Light Of Asia, nguyên
tác của Sir Edwin Arnold, biên soạn về cuộc đời Đức Phật(51).
Rất tiếc văn lục bát của Đoàn Trung Còn không đủ sức
chuyên chở chất liệu thi vị của nguyên tác. Phật Học Tùng
Thư đã đóng góp đáng kể vào công trình phổ thông Phật
Học. Cư Sĩ Đoàn Trung Còn sau này còn sáng lập một tổ chức
lấy tên là Tịnh Độ Tông Việt Nam có cơ sở rải
rác ở miền Nam. Hội này được thành lập năm 1955 và đặt
trụ sở tại chùa Giác Hải ở Phú Lâm, Chợ Lớn. Sau đó,
hội được dời về chùa Liên Tông, 145 đường Đề Thám,
Sài Gòn. Cộng tác với ông Đoàn Trung Còn, có các ông Nguyễn
Văn Vật, Ngô Trung Hiếu, Nguyễn Văn Thiện.
(28)Tục
Tạng Kinh nói nói nơi đây là của Thương Vụ Ấn Thư
Quán in lại năm 1923 theo lối "ảnh ấn" của Tục Tăng
Kinh Nhật Bản. Còn Đại Tạng Kinh nói đây là bản
in năm 1931 do các học giả Châu Khánh Lan, Diệp Quang Xước,
Thích Phạm Thành v.v... vừa mới thực hiện xong. Bản này
in lại Tạng Kinh
đời Tống phối hợp với các kinh
bản đã từng khắc in ở Kim Lăng, Dương Châu, Thường Châu,
Bắc Bình và Thiền Tân trước đó.
(29)Hiện
nhà Lá Bối còn giữ được nguyên vẹn Mông Sơn Thí Thực
Khoa Nghi của Bích Liên. Mong rằng Lá Bối sẽ ấn hành
tác phẩm này để bảo tồn lại cho đời sau. Quy Sơn Cảnh
Sách cùng những tác phẩm Hán văn khác của Bích Liên hiện
không biết có còn được bảo tồn không. Mong các giới cao
tăng Bình Định nếu sưu tầm được thì tìm cách ấn hành
ngay, dù là chỉ in một vài trăm bản để bảo tồn những
tác phẩm quý giá này
(30)Chùa
này do nữ cư sĩ Dương Thị Liễu tạo lập. Năm 1934, bà dâng
chùa này cho Hội để làm Phật Học Đường.
(31)Bốn
vị là Thiện Hòa, Hiển Thụy, Hiển Không và Chánh Quang. Một
vị cư sĩ cũng được gởi ra tham học, đó là ông Nguyễn
Tấn Tài
(33)Theo
lá thư này, ông Trần Nguyên Chấn đã từng "làm đơn kêu
nài với chính phủ" về sự có mặt của hội Lưỡng Xuyên
Phật Học.
(40)Tomomatsu
là tân tăng phái Tịnh Độ Chân Tông. Theo Tiến Hóa
số 9 (tháng Chín 1938) thì trong Chiến Tranh Hoa Nhật ông đã
viết một bài tuyên bố rằng "không có cõi Tây Phương Cực
Lạc".
(48)Hội
Tịnh Độ Cư Sĩ là hậu thân của một hội khác tên là hội
Lễ
Bái Lục Phương thành lập trên căn bản kinh
Thi Ca La Việt.
Hội có một trú sở nhánh tại chùa Hưng an ở Cà Mau, khánh
thành vào ngày 24.2.1937. Những nhân vật chính của hội là
các ông: Lương Văn Đường, Nguyễn Văn So, Lê Văn Chim, Lại
Văn Giáo, Phạm Đình Vĩnh, Trương Văn Thủ, Trần Văn Nhân,
Đặng Văn Thìn, Ngô Quang Minh, Ngô Văn Thắng và Nguyễn Văn
Thiên.
Thiền sư Minh
Trí tên đời là Nguyễn Văn Bồng, sinh năm 1885 tại Sa Đéc.
Ông xuất gia năm 33 tuổi và thường hay vân du tìm hái những
cây lá có được tính để cứu bệnh cho người. Hội Tịnh
Độ Cư Sĩ được thầnh lập năm ông 48 tuổi. Chùa Tân
Hưng Long làm lễ khánh thành vào năm 1936. Chính vào năm đó
ông được tín đồ xưng là Tông Sư Minh Trí
|