|
CHƯƠNG XXVIII HỘI AN NAM PHẬT HỌC Ở TRUNG KỲ
Thiền sư Giác
Tiên có thể gọi là người xướng khởi công trình phục
hưng Phật giáo tại miền Trung, Ông họ Nguyễn, sinh năm 1880
tại làng Già Lê Thượng ở huyện Hương Thủy, tỉnh Thừa
Thiên. Ông xuất gia năm 15 tuổi tại chùa Từ Hiếu, thụ giới
sa di năm 21 tuổi, làm đệ tử của thiền sư Tâm Tịnh. Năm
1904, thiền sư Tâm Tịnh nhường chức vụ trú trì chùa Từ
Hiếu lại cho người khác và về dựng am Thiếu Lâm gần chùa
Tây Thiên để an cư tĩnh tu. Giác Tiên hồi đó được hai
mươi bốn tuổi, được theo về Thiếu Lâm với thầy. Bốn
năm sau, một Đại Giới Đàn được tổ chức tại chùa Phước
Lâm ở Quãng Nam do thiền sư Vĩnh Gia làm Đường Đầu Hòa
Thượng, Giác Tiên được gửi vào thụ giới Cụ Túc. Tại
giới đàn, ông tỏ ra là một giới tử xuất sắc nên được
chỉ định làm thủ chúng sa di. Đó là vào năm 1910. vào khoảng
1913 khi ni sư Diên Trường dựng xong chùa ở Trúc Lâm ở làng
Dương Xuân Thượng, ông được mời về trú trì chùa này.
Năm 1920 khi thiền sư Huệ Pháp mở giảng đường tại chùa
Thiên Hưng, ông đã cùng các đệ tử của ông tìm đến để
cầu học. Thiền sư Huệ Pháp khen ông là người có túc căn
thâm hậu. Năm 1925, ông được vâng sắc chỉ triều đình
làm trú trì chùa Diệu Đế. Năm 1929, sau khi trùng tu chùa Trúc
Lâm, ông mở Phật học đường tại đây và ra vào Bình Định
rước thiền sư Phước Huệ chùa Thập Tháp ra làm chủ giảng.
Từ đó năm nào thiền sư Phước Huệ cũng được thỉnh về
Trúc Lâm để giảng huấn. Các đệ tử của Giác Tiên là
Mật Khế, Mật Nguyện, Mật Hiến và Mật Thể đều được
theo học và được đóng những vai quan trọng trong phong trào
chấn hưng sau này.
Trong
số những người theo học tại Trúc Lâm có một vị cư sĩ
tên là Lê Đình Thám, y sĩ trưởng tại Viện Pasteur Huế.
Cư sĩ Lê Đình Thám là đệ tử của Giác Tiên từ năm 1928,
pháp danh là Tâm Minh. Chính người này đã vâng lời Giác Tiên
triệu tập các đồng lữ thành lập Hội An Nam Phật Học
năm
1932.
Giác
Tiên hướng đạo cho hội An Nam Phật Học được có bốn
năm thì tịch. Ông mất vào ngày mồng bốn tháng 10 âm lịch,
hưởng thọ 57 tuổi, đang lúc đảm nhiệm trách vụ trú trì
hai chùa Diệu Đế và Trúc Lâm, và chứng minh đạo sư cho
hội An Nam Phật Học(52).
Hồi
sinh tiền, Giác Tiên đã được Tâm Định trao cho bài kệ
đắc pháp sau đây:
Giác
đạo kiếp không tiền
Không
không bát nhã thuyền
Quả
nhân phù hạnh giải
Xứ
xứ đắc an nhiên
dịch:
Đường
Giác trước không kiếp
Thuyền
bát nhã không không
Hạnh
giải hợp nhân quả
Ở
đâu cũng thung dung.
Thiền
sư Giác Tiên đã từng đứng ra tổ chức Đại Giới Đàn
tại chùa Từ Hiếu năm 1923. tại giới đàn này, đệ tử
của ông là Mật Khế đã thụ địa giới, trong khi thầy ông
là Tâm Tịnh là hòa thượng truyền giới. Ông rất chú trọng
đến việc đào tạo tăng tài; nhờ có cố gắng của ông
mà chùa Trúc Lâm đã thành nơi xuất phát của nhiều cây cột
trụ của nên Phật giáo cận đại. Trúc Lâm đã tạo được
tới bốn lớp cán bộ tăng sĩ. Các thiền sư Quảng Huệ,
Trí Thủ, Mật Thể, Chánh Thống, Thiện Trí, Thiện Hòa, Thiện
Hoa v.vv… đều đã được huấn luyện tại đây.
Năm
1933. Giác Tiên ủy cho Mật Khế mở một trường tiểu học
Phật học cho sa di các chùa tại chùa Vạn Phước. Năm 1934
ông lại cùng Mật Khế tổ chức trường An Nam Phật Học
tại chùa Trúc Lâm, thu nhận được đúng 50 học tăng. Cuối
năm này ông lại quy tụ các vị học tăng có học lực khá
cao về Trúc Lâm để mở cấp đại học Phật giáo.
Ông
mất, hội An Nam Phật Học tổ chức tang lễ rất lớn. Câu
trướng của hội như sau:
Trúc Lâm không quải tam canh nguyệt Diệu
Đế tri văn ngũ dạ chung.
Đại
diện hội Bắc Kỳ Phật giáo tại tang lễ đã đi câu đối:
Vân
nạp Bắc lai, đàm luận di tuần khâm Giác chỉ
Trúc
Lâm Nam vọng, vãng sinh hà xứ mịch Tiên tung?
Để
có một ý niệm về thi kệ của ông, ta hãy đọc bài thơ
ông tặng cho đệ tử là Mật Khế trước giờ Mật Khế lâm
chung. Danh từ Tâm Địa trong bài là pháp danh của Mật Khế.
Tâm
Địa quan hàm pháp tính viên
Tây
Lai diệu chỉ hiểu Nam thiên
Hoạt
nhiên trực triệt Tào Khê lộ
Miễn
tại linh đinh ngũ thập niên.
dịch:
Cõi
tâm bao hàm Pháp giới tính
Trời
Nam sáng tỏ ý Tây truyền
Bỗng
nhiên thấu triệt Tào Khê lộ
Khỏi
mất công dài năm chục năm.
Đệ
tử tại gia xuất sắc nhất của Giác Tiên hẳn là Tâm Minh
Lê Đình Thám. Bác sĩ Lê Đình Thám là một người có tư
chất cực kỳ thông minh và trái tim đầy nhiệt tình. Ông
sinh năm 1897 tại Quảng nam, con của thượng thư bộ binh Lê
Đỉnh triều Tự Đức. Từ hồi nhỏ ông đã được học
Nho và đã làm được văn bài cùng thi phú cổ điển. Lớn
lên ông theo tân học, đậu thủ khoa trong tất cả các kỳ
thi từ cấp tiểu học đến Đại học. Ông tốt nghiệp thủ
khoa Đông Dương Y Sĩ khóa 1916, và Y Khoa Bác Sĩ khóa 1930.
Năm
1926 lúc còn làm y sĩ tại bệnh viện Hội An, trong một dịp
viếng chùa Tam Thai, ông được đọc bài kệ Bồ Đề Bản
Vô Thụ của Huệ Năng viết trên vách chùa. Đây là lần
đầu tiên ông tiếp xúc với văn học Phật giáo. Bài kệ
đó gây một ấn tượng sâu trong tâm não ông, nhưng mãi đến
năm 1928, về làm việc tại Viện Pasteur Huế, ông mới gặp
người giải thích cho ông một cách thỏa đáng về bài kệ
ấy. Người đó là Thiền sư Giác Tiên.
Thấy
được diệu lý, ông phát tâm quy y Tam Bảo, thờ Giác Tiên
làm thầy, được pháp danh là Tâm Minh, pháp tự là Châu Hải.
Ông phát nguyện ăn chay trường từ đó. Lúc ấy ông mới
có ba mươi mốt tuổi, và Mật Khế đệ tử đầu của Giác
Tiên mới có hai mươi bốn tuổi. Hai ngưòi bạn đồng sư
này thân cận nhau và nâng đỡ nhau trong việc nghiên tầm kinh
luận.
Tâm
Minh Lê Đình Thám đã có căn bản Hán học lại có óc thông
minh nên đã đi rất mau trên con đường học Phật. Liên tiếp
trong ba năm (1929-1932) ông được học tập dưới sự chỉ
đạo của Giác Tiên và của thiền sư Phước Huệ, một cao
tăng nổi tiếng bác thông minh kinh luận vào bậc nhất thời
ấy. Tuy thì giờ học Phật của ông bị giới hạn bởi nghề
nghiệp y sĩ, ông đã vượt xa các bạn đồng học trong thời
gian ấy. Năm 1930 ông lại còn phải ra Hà Nội thi bằng Y Khoa
Bác sĩ ngạch Pháp nữa, vậy mà ông vẫn có đủ thì giờ
học Phật. Lê Đình Thám có lẽ là người cư sĩ đầu tiên
ở thế kỷ thứ hai mươi đã dự phần vào việc đào tạo
tăng tài. Phật học của ông được các bậc tôn túc công
nhận là thâm uyên, cho nên ông đã được mời vào giảng
dạy trong các Phật học đường Trúc Lâm và Tường Vân. Ông
luôn luôn mặc lễ phục (áo tràng) và đảnh lễ chư tăng
trước khi bước lên pháp tòa để giảng kinh cho họ. Lớp
học ở Tường Vân là một lớp trung đẳng; trong thính chúng
có nhiều bậc tỳ khưu học lực đã khá thâm hậu.
Trong
số những vị cư sĩ tham dự vào việc vận động thành lập
hội An Nam Phật Học, ta thấy có Ưng Bàn, Nguyễn Đình Hòe,
Nguyễn Khoa Tân, Viễn Đệ, Nguyễn Khoa Toàn, Ưng Bình, Bửu
Bác, Trần Đăng Khoa, Lê Thanh Cảnh, Lê Quang Thiết, Trương
Xướng, Tôn Thất Quyên, Nguyễn Xuân Tiêu, Hoàng Xuân Ba, Lê
Bá Ý và Tôn Thất Tùng. Trong bước đầu, Lê Đình Thám đảm
nhiệm chức vụ hội trưởng, nhưng ông không ngồi mãi ở
địa vị đó. Các vị khác như Nguyễn Khoa Tân, Ưng Bàng v.v…
cũng thay thế nhau là hội trưởng cho hội. Lê Đình Thám không
những làm cái trục trung ương của hội mà còn là linh hồn
của tạp chí Viên Âm nữa. Sở dĩ ông làm việc được
một cách bền bỉ là tại vì ông có đủ đức khiêm nhượng.
Ông làm một chất keo dính liền các phần tử khác biệt về
tuổi tác và về nhận thức chính trị.
Tuy
con đường của ông là con đường ôn hòa, bản chất của
ông không phải là bảo thủ. Anh ruột ông đã từng bị thực
dân Pháp đầy lên Ba Mê Thuột và hạnh hạ đến nỗi phải
tự sát ở đó vì đã tham dự vào việc khởi nghĩa của vua
Duy Tân. Trong suốt thời gian 1916-1923 làm việc tại các bệnh
viên Bình Thuận, Quy Nhơn và Tuy Hòa, ông thường bị nhà cầm
quyền theo dõi. Ông đã tham dự vào việc tổ chức truy điệu
chí sĩ Phan Châu Trinh tại Quảng Nam và đã bị thuyên chuyển
đi Hà Tỉnh vào cuối năm 1926. Ông đã giúp hội An Nam Phật
Học đạt được những nền tảng khá vững chãi cho cuộc
phục hưng Phật giáo vào những năm sáu mươi sau này.
Chữ
"Học" trong danh từ An Nam Phật Học, theo ông còn có nghĩa
là "Hành". Tên chữ Pháp của hội, in trên bìa Viên Âm
SEERBA,
nghĩa làSociété d’Annam! Hội đã liên tiếp mời các
thiền sư Giác Tiên (chùa Diệu Đế), Giác Nhiên (chùa Báo
Quốc) vàTịnh Hạnh (chùa Tường Vân) làm chứng minh đạo
sư cho hội đã có sự hậu thuẫn của cá bậc tôn túc ở
các tổ đinh và sự cộng tác của các vị tăng ni xuất sắc
thời đó như Mật Khế, Mật Nguyện, Đôn Hậu, Trí Độ,
Trí Thủ, Mật Thể, Diệu Hương và Diệu Viên.
Như
ta đã biết, sơn môn Huế và hội An Nam Phật Học rất chú
trọng về việc đào tạo tăng tài và chỉnh lý tăng giới.
Số lượng chư tăng thất học cũng như số lượng những
vị thầy cúng không sống theo nếp sống thanh quy là một lo
lắng thường trực của họ. Ngoài việc thành lập các lớp
Phật học cho tăng sĩ trẻ tuổi các chùa, họ đã đề ra
một chương trình chỉnh lý tình trạng tăng sĩ. Chương trình
đó gồm có hai điểm:
1-
Thành lập một hội đồng luật sư gồm có những bậc tăng
già tinh thông giới luật để giám sát giới hạnh của tăng
chúng. Ngoài ủy ban trung ương còn có những ban địa phương
đặt tại các tỉnh: những ban này gồm có năm vị gọi là
luật sư. Mỗi tỉnh được chia ra nhiều địa phận, mỗi
địa phận có một vị luật sư giám sát. Hễ khi nào có sự
báo cáo về sự vi phạm giới luật của một vị tăng thì
vị luật sư phải thân hành đi đến tận nơi để tra cứu
và cuối năm thì trình lại Hội Đồng Luật Sư để tài phán.
2-
Tổ chức những ban thầy cúng gồm có những người biết
tán, tụng, cầu an, cầu siêu va hướng dẫn tang lễ. Những
"thầy cúng" này chỉ được mặc áo màu xám năm thân,
không được mặc áo tràng, nhật bình, y màu nâu hoặc y màu
vàng. Họ ở nhàhoặc ở chùa riêng để hành nghề cúng đám
chứ không được ở thiền viện và tổ đình nơi dành riêng
cho tăng sĩ thực thụ mà giới pháp là người giới sa di và
hai trăm năm mươi giới tỳ kheo. Muốn làm thầy cúng thì tối
thiểu cũng phải thụ một hoặc hai giới(53).
Ngoài
ra, cư sĩ phải tham dự vào việc chỉnh lý tình trạng tăng
sĩ bằng cách:
1)
Không nên nhận người phá giới là tăng sĩ.
2)
Phá bỏ những điệp quy y thụ giới do các ông thầy tu nói
trên cấp cho.
3)
Công bố sự phạm giới có bằng cớ của tăng sĩ.
4)
Bảo hộ và cúng dường các vị tinh nghiêm giới luật.
5)
Không tham dự vào những công việc không phù hợp với Phật
pháp.
Chương
trình nói trên là một chương trình khá táo bạo, nhưng đã
vấp vào nhiều trở lực đáng kể. Về tâm lý, cư sĩ ham
chuộng những lễ hộ niệm và cầu nguyện các bậc tăng già
đức hạnh chủ trì hơn là do những ông "thầy cúng" kể
trên hướng dẫn. Về kinh tế, nhiều chùa chiền, kể cả
những chùa chân tu lâu nay sinh sống là nhờ sự ủng hộ của
tín đồ cư sĩ và sở dĩ có sự cúng dường bảo trợ ấy
một phần quan trọng là do nghi lễ ứng phú mà tăng sĩ các
chùa ấy cung cấp cho tín đồ. Số lượng những tổ đình
có ruộng đủ sức nuôi đại chúng thì rất nhỏ bé, và sự
bảo trợ của cư sĩ cho các tự viện không đủ để bảo
đảm cho các tự viện ấy.
Chương
trình, tuy vậy, đã được thực hiện một phần. Sau này,
tại sơn môn các tỉnh, lúc nào cũng có một vị kiểm tăng
để giám sát về giới luật của tăng chúng địa phương.
Chương
trình Phật học đầu tiên của trường An Nam Phật Học tại
Trúc Lâm được hoạch định làm hai cấp, tiểu học và đại
học, như sau:
Tiểu học (năm năm): Năm thứ nhất- Quốc văn và hai buổi công phu Năm thứ hai - Sự tích Phật Thích Ca - Bốn phép Toán - Phật học giáo khoa toàn thư. Năm thứ ba - Luật Sa Di (trường hàng) - Vô lượng Thọ Kinh - Địa Tạng Kinh – Thủy Sám Pháp. Năm thứ tư - Sa Di Luật Giải (trường hàng) – Vô Lượng Thọ Kinh – Địa Tạng Kinh – Thủy Sám Pháp. Năm thứ năm - Di Đà Sớ Sao – Pháp Bảo Đàn Kinh (tốt nghiệp tiểu học thì học tăng được thụ Sa Di Giới) Đại Học (năm năm) Năm thứ nhất - Kim Cương Trực Sớ – Tâm Kinh Chú Giải – Duy Thức Phương Tiện Đàm – Bát Thức Quy Củ Tụng – Trang Sớ Năm thứ hai - Lăng Nghiêm Kinh – Viên Giác Kinh – Nhân Minh Luận. Năm thứ ba - Lăng Già Kinh – Khởi Tín Luận – Đại Thừa Chỉ Quán Năm thứ tư - Thành Duy Thức Luận - Pháp Hoa Kinh – Phạm Võng Kinh- Năm thứ năm - Đại Bát Niết Bàn – Tứ Phần Luật (tốt nghiệp đại học thì học tăng được thụ Tỳ khưu giới) Sau khi tốt nghiệp có thể ở lại trường ghi tên vào lớp tham cứu, cũng năm năm) Năm thứ nhất - Lăng Nghiêm Trực Chỉ – Viên Giác Lước Sớ – Duy Ma Sớ – Tam Luận (Trung Luận, Bách Luận và Thập Nhị Môn Luận) Năm thứ hai - Lăng Già Tâm Ấn Sớ – Giải Thâm Mật Kinh – Du Già Sư Địa Luận Năm thứ ba - Pháp Hoa Kinh Huyền Nghĩa – Pháp Hoa Văn Cú – Ma Ha Chỉ Quán Năm thứ tư - Hoa Nghiêm Luận – Hoa Nghiêm Sớ Sao Năm thứ năm - Đại Trí Độ Luận – Tông Cảnh Lục – Chỉ Nguyệt Lục – Hải Triều Âm Văn Khố Chương trình nói trên được hoạch định vào năm 1934. Chương trình này có khuyết điểm là dài quá, và nhất là hai năm đầu tiểu học không cần thiết. Kiến thức của hai năm này thực ra có thể được các chùa địa phương cung cấp trước khi học tăng gửi về Phật học đường, và như vậy gánh nặng tài chính của trường sẽ được giảm bớt một phần. Chương trình lại còn những điểm không hợp lý, ví dụ năm thứ nhất cao đẳng: đã gồm có Lăng Nghiêm Trực Chỉ, Viên Giác Lược Sớ, Duy Ma Sớ mà còn thêm ba bộ luận lớn của không tôn (Tam Luận). Không ai có thể dạy và học tất cả những tác phẩm đó trong một năm. Đến năm 1944, một chương trình mới được hoạch định như sau: Sơ đẳng (hai năm) Năm thứ nhất - Kinh: Thập Thiện Nghiệp Đạo – Ngũ Thiên Sứ Giả – Trừ Khủng Tai Hoạn – Bụt Kinh – Tứ Thập Nhị Chương – Bát Đại Nhơn Giác. Luật: Sa Di Luận: Duy Thức Tam Tự Kinh Khóa tụng: Nghi thức của hội (giảng giải) và các khóa nghi trong sơn môn. Năm thứ hai Kinh: Phật Di Giáo - Nhị Khóa Hợp Giải. Luật: Cảnh Sách Luận: Đại Thừa Bách Pháp Môn Minh Môn Luận Giải (của Khuy Cơ) Bát Thức Quy Củ Tụng Trang Chú - Đại Thừa Khởi Tín Luận. Khóa Tụng: các khóa nghi trong Sơn Môn. Trung đẳng (hai năm): Năm thứ nhất - Kinh: Duy Ma Cật Kinh Giảng Lục (Thái Hư) - Kim Cương Kinh Giảng Lục (Thái Hư) Luật: Ưu Bà Tắc Giới Kinh Luận: Đại Thừa Chỉ Quán - Duy Thức Đích Khoa Học Phương Pháp - Nhân Minh Luận Sớ. Khóa tụng: Các khóa nghi trong Sơn Môn Cao đẳng(hai năm): Năm thứ nhất - Kinh: Lăng Già Tâm Ứng Luật: Bồ Tát Anh Lạc Kinh Luận: Bách Luận - A Tỳ Đạt Ma Câu Xá Luận. Năm Thứ Hai - Kinh: Pháp Hoa Kinh Văn Cú Luật: Phạm Võng Kinh Hợp Chú Luận: Nhị Thập Môn Minh Luận - Thành Duy Thức Luận. Theo chương trình này, những học tăng tốt nghiệp Cao Đẳng, nếu muốn thành giáo sư các trường Phật học thì phải ở lại nghiên cứu và tu tập thêm ba năm nữa tại trường. Chương trình này thực tế hơn chương trình trước nhiều và cũng hàm chứa một số tác phẩm mới như những sách giảng lục của Thái Hư và Đại Viên. Muốn vào học, học tăng phải qua một kỳ khảo thi. Trình độ căn bản là: 1- Đậu Sơ học Pháp - Việt 2- Biết đọc và biết viết chữ Hán. 3- Quốc ngữ phải thông thạo. Có thể dịch một bài kinh luận từ chữ Hán ra quốc ngữ và một vài câu quốc văn ra chữ Hán. Hội An Nam Phật Học từ năm 1934 đã khuyến khích mở các Phật học đường Sơ đẳng tại các tỉnh. Sự cộng tác của nhiều chùa có thể đi đến một Phật học đường như thế. Sau đây là những chỉ dẫn củahội về thể thức thành lập Phật học đường: Trường ốc: Chọn chùa rộng rãi, khí hậu tốt không sinh bệnh, ở đó tăng sĩ cư trú được nổi tiếng là giới hạnh tinh nghiêm. Vị trú trì chùa có thể là ít học nhưng phải là người tu hành chân chính. Giáo sư: Chọn trong số các vị tăng sĩ địa phương hai vị giáo thọ, một vị chánh một vị phó. Vị trú trì nếu là người có khả năng thì nên mời tham dự vào việc giảng dạy. Nếu chưa có thầy giỏi thì chỉ nên mở một lớp sơ đẳng cho giới sa di mà thôi. Học tăng: Chọn những chú tiểu thông minh và phúc hậu, con nhà hiền lành, từ mười tới hai mươi tuổi, để mở một lớp sơ đẳng. Mỗi lớp chỉ nên nhận từ 30 - 40 người. Những học sinh không thi đậu lên lớp, nhất là những người trẻ không có khả năng tu học thì nên cho về nhà sớm. Ban đầu chỉ nên mở một lớp; khi có cơ sở rộng rãi sẽ mở thêm. Tài chính: Cần có từ 100 đến 150 đồng để làm phương tiện chuẩn bị cư xá cho học tăng và lộ phí cho giáo thọ. Nên kêu gọi các tín đồ hữu tâm mỗi người bảo trợ một hoặc hai học tăng từ 10 đến 15 năm, mỗi năm đóng góp 3 đồng cho mỗi học tăng. Nếu thiếu phương tiện thì hai hoặc ba người hợp tác để bảo trợ cho một học tăng. Sau khi đãcó đủ người tình nguyện bảo trợ đủ 40 học tăng, là có thể tổ chức Phật học đường ngay(55). Trường An Nam Phật Học được khai giảng năm 1933 tại chùa Vạn Phước, số học tăng là 50 vị. Năm 1936, trường này được dời về chùa Túy Ba gần bờ biển, và cuối năm ấy lại được dời về chùa Báo Quốc. Thiền sư Trí Độ bắt đầu đảm nhiệm trách vụ đốc giáo của trường này từ năm 1935. Tới năm 1938, học tăng của trường còn đúng bốn mươi lăm vị, trong số đó chỉ có mười lăm vị được học bổng của Hội An Nam Phật Học. Trong số học tăng của trường này, có nhiều vị từ các tỉnh Trung Kỳ tới. Trường Sơn Môn Phật học có nhiều lớp: một lớp đại học mở tại chùa Trúc Lâm năm 1935 do thiền sư Giác Tiên làm giám đốc, và một lớp trung học mở tại chùa Tường Vân do thiền sư Tịnh Khiết trông nom. Thiền sư Phước Huệ phụ trách làm đốc giáo giảng dạy cả hai lớp đại học và trung học. Lớp trung học có nhận những học tăng từ miền Nam tới như Thiện Hòa, Hiển Thụy, Hiển Không, Thiện Hoa, Chí Thiện v.v… Trong số các giáo sư dạy trường này có các thiền sư Tịnh Khiết, Đắc Ân, Thánh Duyên, cư sĩ Tâm Minh và một số các học tăng đại học. Năm 1937, lớp này được dời về chùa Tây Thiên. Trường ni học được khai giảng lần đầu tại chùa Từ Đàm năm 1932 do ni sư Diệu Hương giám đốc. Cuối năm ấy chùa Diệu Đức ở xã Thủy Xuân được tạo lập. Ni học đường được dời về chùa Diệu Đức, và chùa Từ Đàm trở thành hội quan của hội An Nam Phật Học. Ngoài ni sư Giám Đốc, còn có một số cá học tăng đai học của trường Sơn Môn Phật Học tới giảng dạy, như Đôn Hậu, Trí Thủ, Mật Hiển và Mật Nguyện. Năm 1943 trường An Nam Phật Học thi tốt nghiệp. Trong số 50 học tăng, chỉ có 6 vị đủ điểm: Võ Tường (Huế), Phạm Quang (Quảng Bình), Nguyễn Bình (Sài Gòn), Đỗ Xuân Hàng (Quảng Trị), Trần Trọng Thuyên (Quảng Ngãi) và Nguyễn Chí Quang (Trà Vinh). Bốn người khác đủ điểm thi viết, nhưng thiếu điểm phỏng vấn, phải vớt, là Nguyễn Phương (Đà Nẵng), Nguyễn Hương (Sài Gòn), Phạm Học (Đà Nẵng) và Phạm Thơ (Huế). Năm1944, Phật học đường Báo Quốc được dời về Tùng Lâm Kim Sơn ở xã Lưu Biểu. Tùng Lâm Kim Sơn là một dự án xây dựng lớn của hội An Nam Phật Học. Tiếc thay, Kim Sơn ra đời không thích hợp thời cơ: nền kinh tế quốc gia sau ngày Nhật đảo chính Pháp đã trở thành kiệt quệ. Sơn Môn và hội An Nam Phật Học không đủ sức nuôi nổi học tăng. Học tăng cũng không đủ sức đóng góp phạn phí. Tùng Lâm Kim Sơn bị đóng cửa, và một số học tăng cấp trung học và sơ học phải khăn gói vào Nam, nơi lúa gạo vẫn còn, để tìm nơi ăn học. Thiền sư Thiện Hoa, lúc bấy giờ là kiểm khán của Phật học đường Báo Quốc, là người đề xướng giải pháp di cư học tăng này. Nguyên ông là học tăng từ miền Nam, được hội Lưỡng Xuyên gửi ra tùng học tại Phật học đường Tây Thiên từ năm 1937. Nghĩ rằng miền Nam cuộc khủng hoảng kinh tế nhẹ hơn, cho nên ông đã đề xướng việc di cư. Đoàn học tăng này phải đi bộ từ Huế vào Nam mất mấy tháng trời. Cuộc di cư này xảy ra vào tháng Tư năm 1945, sau khi Nhật đã đảo chính Pháp. Vào tới miền Nam, thiền sư Thiện Hoa đưa học tăng đến chùa Vĩnh Tràng ở Mỹ Tho. Sau đó, trường dời về chùa Phật Quang ở Trà Ôn, tỉnh Trà Vinh. Nhờ cư sĩ Trương Hoàng Lâu, một đệ tử của thiền sư Khánh Hòa, ra tay vận động ủng hộ về tài chính, trường Phật Quang mới đứng vững được. Nhưng khi Cách Mạng Tháng Tám đến, phần lớn học tăng hăng hái đi tham gia kháng chiến. Phật học đường này vì vậy đã giải thể. Các lớp học của trường Sơn Môn Phật Học năm 1944 được dời về chùa Linh Quang. Thiền sư Trí Thủ giữ trách vụ giám viện của trường, đồng thời kiêm nhiệm trách vụ trú trì của chùa. Năm 1946, trường dời về chùa Báo Quốc. Hội An Nam Phật Học lúc đầu đặt trụ sở tại chùa Từ Quang và nguyệt san Viên Âm đã đặt tòa soạn tại số 13 đường Champeau Huế. Các buổi giảng diễn Phật pháp đầu tiên được tổ chức tại chùa Từ Quang, và hai giảng sư phụ trách giảng diễn nhiều nhất là Mật Khế và Tâm Minh Lê Đình Thám. Cư sĩ Tâm Mminh cũng viết những bài Phật pháp bằng Pháp văn để đăng trên báo Viên Âm nữa.
Giảng
sư Mật Khế là một trong những đóng góp cụ thể nhất của
Giác Tiên cho nền Phục hưng Phật học. Mật Khế sinh năm
1904 tại làng Thần Phù tỉnh Thừa Thiên. Chín tuổi ông đã
được theo làm tiểu đồng cho Giác Tiên. Năm mười chín tuổi
ông được chính thức thế độ, pháp danh là Tâm Địa, pháp
hiệu là Mật Khế. Cũng năm ấy, ông thọ Cụ Túc Giới tại
giới đàn Từ Hiếu do thiền sư Tâm Tịnh làm hòa thượng.
Trong giới đàn này ông là người xuất sắc nhất trong các
giới tử nên chỉ định làm thủ chúng sa di và sau khi thụ
giới, ông được thiền sư Tâm Tịnh tặng cho một bộ ca
sa và một cái bình bát.
Năm
22 tuổi ông được gửi vào chùa Thập Tháp Bình Định học
với thiền sư Phước Huệ, khi Phước Huệ ra dạy ở Trúc
Lâm, ông lại theo ra để tiếp tục học tập. Năm 1933 ông
lập trường tiểu học Phật giáo tại chùa Vạn Phước và
đến năm 1935 ông lại hợp tác với Giác Nhiên mở trường
An Nam Phật Học tại Trúc Lâm.
Ông
hoạt động với tư cách tổng thư ký của Sơn Môn Thừa Thiên,
và giảng sư của hội An Nam Phật Học. Những bài giảng của
ông tại chùa Từ Quang như Tam Quy Ngũ Giới, Trạch Pháp
Tu Tâm, Thanh Văn Thừa, Bồ Tát Thừa, Pháp Môn Niệm Phật
v.v… đều được in lại trong báo Viên Âm.
Năm
1934 ông và Trí Độ đi Quảng Ngãi dự Giới Đàn Thạch Sơn
với tư cách "phóng viên" của báo Viên Âm. Để chuẩn
bị cho Lễ Phật Đản vĩ đại tổ chức tại Huế năm 1935.
ông đã đề ra nhiều tuần lễ vận động trong giới tăng
sĩ Thừa Thiên để mang lại sự ủng hộ toàn diện của giới
này cho buổi lễ. Ngày 10.5.1935, trong lúc đại lễ đang được
cử hành tại chùa Diệu Đế thì ông thị tịch tại chùa
Trúc Lâm. Thiền sư Giác Tiên, không có mặt tại buổi lễ,
ngồi bên ông trong giờ phút ông sửa soạn nhập diệt. Giác
Tiên đã cầm bút viết một bài kệ bốn dòng trao cho ông
đọc(56).
Đọc xong ông nhắm mắt chiêm nghiệm. Mười lăm phút sau ông
từ trần, tuổi đời chỉ mới 31 tuổi. Ngày an táng ông,
một người bạn thân thiết là cư sĩ Vân Đàn tặng đôi
câu đối bằng chữ Nôm như sau:
Rừng
Mai đạp tuyết, cay đắng trải bao phen, cơ hóa độ còn nhiều,
hy vọng chứa chan, tằm kéo tơ lòng thêu sử Phật;
Sàng
Trúc trổ hoa, tỉnh mê trong nửa kiếp, tình tương tri quá
nặng, sầu trường man mác, quyên rơi giọt lụy gọi hồn
thiêng.
Có
lẽ giảng sư Mật Khế đã phí sức nhiều quá trong những
ngày vận động cho lễ Phật Đản, một cuộc biểu dương
đầu tiên của lực lượng quần chúng Phật giáo trong phong
trào phục hưng. Như ta đã biết, đại lễ này có vua Bảo
Đại tham dự, đã làm cho báo chí trong nước nói tới nhiều
lần và câu hỏi về sự cần thiết hay không càn thiết một
cuộc phục hưng Phật giáo đã được đặt ra giữa dư luận
của quần chúng quảng đại. Tổng Trị Sự của hội An Nam
Phật Học qua trung gian của những người như Ứng Bàng, Nguyễn
Đình Hòe, Nguyễn Khoa Tân v.v… trước đó đã vận động
để vua Bảo Đại nhận chức vị hội trưởng danh dự của
hội. Từ năm trước, tức là năm 1934, vua Bảo Đại đã ban
sắc tứ cho các chùa Tây Thiên, Tường Vân và Trúc Lâm. Chùa
Tường Vân nguyên đã là một chùa sắc tứ rồi, bây giờ
lại được ban sắc tứ một lần nữa. Chùa Tây Thiên bây
giờ lại được hiệu là "Sắc Tứ Tây Thiên Di Đà Tự"
và chùa Trúc Lâm "Sắc Tứ Đại Thánh Trúc Lâm Tự". Đại
Thánh Trúc Lâm tức là vua Trần Nhân Tông ngày xưa vậy. Sau
lễ Phật Đản 1935, có nhiều bài báo công kích đạo Phật,
cho rằng đạo Phật làđạo ru ngủ và phục hưng Phật giáo
là một việc làm không hợp thời. Chẳng hạn báo Ánh Sáng
ra ngày 8.6.1935 đã đăng một bài của Kính Hiển Vi. Nhan đề
là Phật Giáo Dưới Kính Hiển Vi. Ký giả Nguyễn Xuân
Thanh của Viên Âm bác bỏ các luận cứ của Kính Hiển
Vi, và bảo rằng Kính Hiển Vi chỉ "có thể để xem vi trùng
chứ không có thể xem Phật giáo" Ông cho rằng Phật giáo
rất thích hợp với đời sống mới, rằng đạo Phật có
đủ tinh thần cải cách, tinh thần độc lập, tinh thần thực
hành và tinh thần dũng cảm(57).
Tuy chứng minh đạo sư của hội là Giác Nhiên có viết thư
khuyên Viên Âm "tránh sự cãi cọ như tránh hang lửa
trừ khi phải hộ pháp", tạp chí Viên Âm vẫn chứng
tỏ làm một tạp chí có biện tài. Trong khi Tâm Minh đối
chất với Bích Liên và những học giả khác về đề tài
"Cái Hồn", thì Nguyễn Xuân Thanh thẳng tay phê bình những
bài viết trên các báo Tràng An và Ánh Sáng về
đạo Phật. Chủ trương của Nguyễn Xuân Thanh là đạo Phật
có thể luyện cho con người một tinh thần tự lập, khẳng
khái, cương quyết, biết hy sinh, và thanh niên của đạo Phật
là người có thể thực hiện được tinh thần ấy vì họ
là những bực đã phát bồ đề tâm. Cây bút Nguyễn Xuân
Thanh là cây bút thanh niên. Ông nhấn mạnh với đối phương:
"Người nào muốn phê bình đạo Phật thì trước hết, ít
nữa cũng phải biết đạo Phật là chi đã"(59).
Nguyễn Xuân Thanh còn viết nhiều bài nữa để chứng minh
rằng Phật học rất cần thiết để bổ túc cho khoa học.
Hội
An Nam Phật Học lập tỉnh hội, chi hội và khuôn
hội tại khắp các tỉnh Trung Kỳ. Chi hội là đơn
vị phủ huyện của hội, và khuôn hội là đơn vị
xã. Vào khoảng năm 1940, cơ sở tổ chức của hội đã vững
chãi từ thành thị đến thôn quê khắp xứ.
Cũng
vào khoảng năm 1940, cơ sở của tổ chức Thanh Thiếu Niên
Phật Tử được thành lập. Từ 1932 những tổ chức thiếu
niên thiếu nữ đã có mặt rồi, được gọi là những ban
Đồng Aáu, ở Trung thì do các vị như Bửu Bác chăm sóc dạy
dỗ, ở Bắc thì có các vị như Công Chân luyện tập. Tuy
nhiên những ban Đồng Ấu này chưa đích thực là những tổ
chức giáo dục thanh niên theo phương pháp mới. Năm 1940, cơ
sở của tổ chức Thanh Thiếu Niên Phật tử được thành
lập. Từ 1932 những tổ chức thiếu niên thiếu nữ đã có
mặt rồi, được gọi là những ban Đồng Ấu. Ở Trung thì
do các vị như Bửu Bác chăm sóc dạy dỗ, ở Bắc thì do các
vị như Công Chân luyện tập. Tuy nhiên những ban Đồng Ấu
này chưa đích thực là những tổ chức giáo dục thanh niên
theo phương pháp mới. Năm 1940, Tâm Minh Lê Đình Thám quy tụ
một số thanh niên tri thức tân học tại Huế, phần lớn
là con cháu các cư sĩ đã từng hoạt động trong hội An Nam
Phật Học, và thành lập đoàn Thanh Niên Phật học Đức
Dục. Ông cũng gọi cái tổ chức bằng danh từ Pháp ngữ
"Commission d’Etudes Bouddhiques Et De Perfec-tionnement Moral".
Đích thân ông đứng ra hướng dẫn cho đoàn và dạy Phật
pháp cho họ. Những thanh niên tân học này không học Phật
pháp bằng những văn bản Hán văn nữa. Họ được nghe trình
bày đạo Phật theo đường lối tân học, cho nên họ hiểu
giáo lý rất mau chóng. Đồng thời với Phật học, họ còn
được học Nho học và Lão học nữa. Ông Đinh Văn Chấp,
tiến sĩ Hán học, đã tham dự vào việc giảng huấn cho lớp
này. Ông đã giảng các sách Đại Học và Trung Dung
của Nho giáo.
Đoàn
Thanh Niên Phật Học Đức Dục lúc ấy là tượng trưng cho
một đạo Phật rất "mới". Bài ca chính thức của đoàn
được soạn và hát ca bằng tiếng Pháp! Điều này khiến
cho giới thiếu niên thấy rằng đạo Phật làmột cái gì
rất "hợp thi", không còn cổ hủ nữa. Đây là "Bài Hát
Chính Thức" của tổ chức Gia Đình Phật Tử "Hoa Sen Trắng"
sau này. Lời Pháp hồi ấy như sau:
Rangeons
nous, mes amis
Pour
chanter gaiement en choeur
Portons
tous vers Bouddha
Notre
foi et notre ardeur
Engageons-nous
à tout prix
Sur
la route qui monte brille
Et
ce chant s’élevéra
Nhiều
ban Đồng Ấu mới được thành lập, và những ban này bắt
đầu hướng dẫn, học tạp và rèn luyện bởi những đoàn
viên của đoàn Phật học Đức Dục. Cuốn sách căn bản về
Phật học để giáo dục thanh thiếu niên hồi ấy là cuốn
Phật
Giáo Sơ Học được đoàn Phật Học Đức Dục soạn và
ấn hành năm 1942. thấy thế hệ trẻ làm việc có hiệu quả,
Lê Đình Thám giao cho họ việc biên tập Viên Âm và
sử dụng tạp chí này để tạo dựng một thế hệ Phật
tử mới. Từ số 48 trở đi(61)Viên
Âm đổi mới hoàn toàn. Hầu hết mọi bài vở đều do
đoàn viên Đoàn Phật Học Đức Dục viết. Văn của họ mới,
gọn và dễ hiểu, hướng cả về tuổi trẻ. Truyện tiền
thân của họ viết làm say mê thiếu niên và thiếu nữ(62).
Trong phần Pháp văn họ viết về sự thực tập thiền định
(Pratique de la Méditation), giới thiệu phần thực tiễn
và tinh ba nhất của đạo Phật cho giới tân học.
Rất
nhiều đoàn viên của Đoàn Phật Học Đức Dục đã đóng
góp bài cho Viên Âm: Lê Hữu Hoài, Phạm Hữu Bình, Lê
Bối, Trần Đỗ Cung, Ngô Điền, Nguyễn Năng Viên, Nguyễn
Hữu Quán, Võ Đình Cường, Đinh Văn Vinh, Hoàng Kim Hải, Trực
Hiên, Hà Thị Hoài, Nguyễn Khải, Ngô Đồi, Phạm Hữu Bình
là một trong những người có kiến thức giáo lý vững chãi
nhất. Ông đã viết về Duy Thức trong nhiều số Viên Âm.
Đoàn
Phật Học Đức Dục lại có tổ chức Phật học Tùng Thư
và xuất bản nhiều sách Phật, trong đó có cuốn Phật
Giáo Và Thanh Niên Đức Dục của Phạm Hữu Bình và cuốn
Phật
Giáo Và Đức Dục của Đinh Văn Vinh. Hai cuốn này đều
nhằm đến sự xây dựng phong trào thanh niên Phật tử.
Trong những năm 1942, 1943 và 1944, các lớp Phật pháp được tiếp tục tổ chức cho thanh niên tân học vào mùa nghỉ hè và cư sĩ Tâm Minh luôn luôn phụ trách việc giảng dạy. Vào ngày Phật Đản năm 1944, một đại hội Thanh Thiếu Niên Phật Tử được tổ chức tại rừng Quảng Tế. Đại hội này khai sinh Gia Đình Phật Hóa Phổ, tiền thân của tổ chức Gia Đình PhậtTử sau này.
Cư
sĩ Tâm Minh có nhiều tài năng. Trong các số đầu của Viên
Âm, ông tự tay viết cả truyện ngắn (ký tên T.M.), truyện
dài (ký tên Châu Hải) và truyện hài hước (ký tên Ba Rảm),
gọi đó là những "biệt khai phương tiện". Tuy rằng truyện
ngắn và truyện dài của ông(63)
có nhiều ý vị nhưng vì độc giả Viên Âm muốn dành
hết số trang cho giáo lý nên đến số 4, ông hy sinh hai mục
đó và chỉ giữ lại mục câu chuyện khôi hài, tức là câu
chuyện của chú tiểu Cửu Giới.
Viên
Âm ra mắt số đầu ngày 1.12.1933. Danh từ Viên Âm được
giải thích như sau: "Viên Âm nghĩa là tiếng tròn. Tiếng
tròn là tiếng nói hoàn toàn; tiếng nói hoàn toàn duy chỉ
pháp âm của Phật. Phật là bậc viên giác, tự giác, giác
tha, giác hạnh viên mãn, cho nên lời nói tròn, việc làm tròn,
giáo pháp tròn, tròn theo bổn tánh thanh tịnh, tròn làm sao,
trong tròn, ngoài tròn, trên tròn, dưới tròn, cũng tam giới
khắp thập phương, lớn nhỏ xa gần đâu đâu cũng tròn cả"
Khả
năng học Phật của Tâm Minh có thể nhận ra trong các thiên
khảo luận như Kết Sinh Tương Tục Luận và trong các
bản dịch thuật và chú giải của các kinh như Lăng Nghiêm
Kinh. Tuy làm được thật nhiều việc, ông vẫn có thái
độ khiêm cung và sự khiêm cung và sự khiêm cung này được
trông thấy nơi một bài thơ ông làm và đăng ở Viên Âm
số 17 (tháng Chín 1935):
Bấy nay vật vã kiếp phù trầm May
đặng vào tai tiếng Phạm Âm
Tùy
tiện trau dồi gương chánh kiến
Ứng
cơ giảng giải lý duy tâm
Ngộ
mê vẫn đủ ngôn thân ý
Sinh
tử nguyên vì sát đạo dâm
Tam
bảo từ bi xin mật hộ
Cho
khi hoằng pháp khỏi sai lầm.
Có
thể nói là Tâm Minh Lê Đình Thám đã trao truyền được chí
nguyện hoằng pháp cho thế hệ đi sau ông. Rảnh tay về Viên
Âm, ông dồn nghị lực xây dựng cơ sở cho một Phật
học Viện lớn tại Kim Sơn gọi là Tòng Lâm Kim Sơn để
dời tất cả các lớp Phật Học ở kinh đô về. Dự án đẹp
đẽ này chưa thành thì Cách Mạng Tháng Tám xảy ra và công
việc bị bỏ dở.
Năm
1946, cuộc chiến Pháp Việt bùng nổ, dân chúng Huế tản cư,
ông cùng gia đình di tản vè Quảng Nam. Từ 1947 tới 1949 ông
làm chủ tịch Ủy Ban Hành Chính kháng Chiến Miền Nam Trung
Bộ. Tại liên khu V của vùng kháng chiến, ông tập hợp một
số đoàn viên của đoàn Phật Học Đức Dục có mặt trong
vùng và thành lập tổ chức "Phật Giáo và Dân Chủ Mới"
tại Bồng Sơn, Bình Định, nghiên cứu việc tổng hợp giáo
lý Phật giáo và lý thuyết Mác-Lê. Trong những tài liệu được
phát hành có tập Đạo Phật Và Nền Dân Chủ Mới của
Nguyễn Hữu Quán.
Mùa
hè năm 1949, ông được lệnh ra Bắc. Ở đây ông được đề
bạt làm chủ tịch Phong Trào Vận Động Hòa Bình Thế Giới.
Năm 1956 ông được đi dự lễ Buddha Jayanti tại Ấn
Độ với pháp sư Thích Trí Độ. Trong dịp này tượng Thiên
Thủ Thiên Nhãn tại chùa Tiên Phúc đã được mang theo để
triển lãm.
Năm
1961 toàn bộ Kinh Lăng Nghiêm mà ông đã khởi công phiên
dịch và chú giải trên Viên âm được xuất bản. Ông
mất vào ngày 23.4. 1969 tại Hà Nội, thọ bảy mươi ba tuổi.
Tâm Minh Lê Đình Thám xứng đáng có một chỗ đứng quan trọng trong lịch sử Phật giáo Việt Nam cận đại. Ông là một người dễ mến và đầy nhiệt tình. Ông luôn luôn được bao quanh bởi bạn bè. Bên ông có những nghệ sĩ tài ba như Bửu Bác và Nguyễn Khoa Toàn (công việc trùng tu chùa Từ Đàm để làm trụ sở cho hội An Nam Phật Học được thành tựu đẹp đẽ nhờ sự có mặt của Nguyễn Khoa Toàn. Ông Toàn đã trông coi về phương diện mỹ thuật. Tượng Phật chùa Từ Đàm là do ông điêu khắc). Tâm Minh lại không hề xa cách với tuổi trẻ. Có khi ông hồn nhiên như trẻ con. Một hôm từ nhà, ở số 31 đường Nguyễn Hoàng, ông đi bộ lên Từ Đàm. Dưới dốc Nam Giao ông gặp hai đứa trẻ ngồi đánh cờ tướng bên đường. Ông ghé mắt xem, thấy một bên đang bí nước. Ông liền ngồi xuống chỉ cờ cho em bé. Và ông ngồi chơi đánh cờ với bọn trẻ tới hơn một giờ đồng hồ rồi mới tiếp tục đứng dậy lên chùa. Có công, có lòng với Cách Mạng, ông đã thao thức muốn điều hợp học thuyết xã hội chủ nghĩa với Phật pháp và đã có công bênh vực Phật giáo bị hạn chế ở liên khu V. Sau đó ông được triệu ra Bắc. Ông ra Hà Nội bằng đường mòn Hồ Chí Minh, dọc theo dãy Trường Sơn. Năm 1956 được gặp các đại biểu Miền Nam tại đại hội Buddha Jayanti, ông rất phấn khởi khi nghe tin tức Phật giáo miền Nam {…} Khi về Hà Nội ông không còn giữ chức Chủ tịch Phong trào Hòa Bình nữa {…} Ông đã làm đủ mọi cách để có thể xuất bản được cuốn kinh Thủ Lăng Nghiêm do ông dày công phiên dịch và chú giải. Ngày xuất bản kinh nầy năm 1961 tại Hà Nội tại chùa Quán Sứ, chắc chắn là một ngày vui và một niềm an ủi lớn cho ông. Ông phiên dịch và viết khá nhiều, phần lớn đều được in trên Viên Âm. Sau đây là một đoạn văn của ông mà chúng tôi thiết nghĩ có thể tóm tắt được nhận thức của ông về Phật giáo đại thừa. Đoạn văn này được trích trong Lời Nói Đầu ông viết vào mùa Xuân năm 1961 tại Hà Nội, in ở đầu bộ Kinh Thủ Lăng Nghiêm {…} trong môi trường một xứ sở xã hội chủ nghĩa. "Chư Phật ra đời chỉ nhằm được một mục đích là dạy bảo chỉ bày cho chúng sinh giác ngộ và thức chứng Pháp-giới-tính như Phật. Pháp-giới-tính là tính bản nhiên của tất cả sự vật, nghĩa là của tất cả các chuyển động và các hiện tượng trong vũ trụ". "Tính bản nhiên ấy là tính trùng trùng duyên khởi, nghĩa là tính ảnh hưởng dây chuyền của một sự vật đối với tất cả sự vật, của tất cả sự vật đối với một sự vật. Ví như một con cá nhỏ vẫy đuôi. Tuy rung động rất ít, nhưng nếu có khả năng đo lường chính xác, thì cũng có thể thấy ảnh hưởng cùng khắp bốn bể. "Do mọi sự vạt chịu ảnh hưởng của tất cả sự vật nên đều chuyển biến không ngừng nên ảnh hưởng lại tất cả sự vật chuyên biến không ngừng nên ảnh hưởng lại lai tất cả sự vật đều chuyển biến không ngừng. Song ảnh hưởng của các loại sự vật đối với mọt sự vật không giống nhau, cái thì trực tiếp, cái thì gián tiếp qua một hay nhiều lớp, do đó tác dộng cũng không giống nhau. Trong ảnh hưởng phức tạp của tất cặ vật làm cho một sự vật xuất hiện và chuyển biến, đạo Phật đã rút ra một quy luật bản nhiên là luật nhân-quả. "Luật nhân-quả là một quy luật rất sinh động không phải luôn luôn đơn giản như trồng lúa thì được lúa. Lại chính việc trồng lúa cũng không đơn giản lắm, vì phải có đất, nước, phân, cần, giống, phải kể đến thời tiết thuận nghịch, đến kỹ thuật cày cấy v.v… thì mới chắc được lúa. Vì thế nên nhân quả và định mệnh khác nhau rất nhiều. Định mệnh thì việc gì cũng đã định trước rồi, không làm sao tránh khỏi được; còn nhân quả thì chẳng những có nhân quả khứ sinh quả hiện tại, mà còn có nhân hiện tại sinh quả hiện tại (trong đó có cả ảnh hưởng của hoàn cảnh, ảnh hưởng của tư tưởng hành động bản thân). Hai dây chuyền nhân quả đó thường xuyên ảnh hưởng lẫn nhau, làm cho quả báo hiện tại thay đổi từng giờ từng phút. Vật chất có nhân quả vật chất, tâm thức có nhân quả tâm thức, hai bên ảnh hưởng lẫn nhau nhưng không nhất thiết giống nhau. Đối với Đạo Phật, nhân quả tâm thức là chủ yếu, vì nó quy định sự tiến hóa hay thoái hóa trên con đường giải thoát. "Các vị thanh văn duyên giác, theo đạo lý nhân quả, trừ bỏ nguyên nghân luân hồi và chứng quả vô sinh, nhưng vẫn còn tu tu chứng trong nhân quả, chứ chưa rõ được then chốt nhân quả. "Then chốt nhân quả là Pháp-giới-tính trùng trùng duyên khởi, nghĩa là mọi sự vận duyên tất cả sự vật, trong một có tất cả, trong tất cả có một, một tức là tất cả, tất cả là một. Tính ấy gọi là tính chân như, là thật tướng, là Phật tính, là Như Lai Tạng Tính, là pháp tính, là tâm linh, vân vân… "Tính ấy bình đẳng, không thật có sinh có diệt, có người có mình, có tâm, có cảnh, có thời gian, có không gian, không thấp, không cao, không mê, không ngộ; tính ấy duyên khởi ra tất cả sự vật, không có ngăn ngại, đồng thời cũng tức là bản tính của tất cả sự vật, không có ngăn ngại, đồng thời cũng tức là bản tính của tất cả sự vật, không hề thay đổi. "Tam thế chư Phật, chư Đại Bồ Tát, thật chứng và nhập một với Pháp-giới-tính nên phát khởi duyên đại từ, đồng thể đại bi, hiện ra vô số thân, theo duyên hóa độ vô lượng vô biên chúng sanh, nhưng vẫn không có gì ra ngoài Pháp-giới-tính. Chúng sinh chưa chứng được Pháp-giới-tính nên theo duyên mà luân hồi trong lục đạo. Nhận thức khác nhau nên chỗ thụ dụng của Phật và của chúng sinh khác nhau, nhưng Pháp-giới-tính vẫn là như vậy, không thêm, không bớt. "Pháp-giới-tính là tính chung của các loại vô-tình như cây, như đá và của các loại hữu-tình, đặc biệt các loại có trình độ nhận thức khá cao như loài người, mới có khả năng chứng được Pháp-giới-tính và thành Phật đạo. Do đó nên Pháp-giới-tính nơi các loài hữu tình cũng gọi là Phật tính. Các loài hữu tình chủ yếu là những cái tâm làm cho có sống, có cảm giác, có nhận thức, có suy nghĩ, có ghi nhớ vân vân… Cái tâm là một sự vật nên bản tính vẫn là Pháp-giới-tính như các sự vật khác. "Khi học đạo và tu chứng, tâm ấy có thể quan sát Pháp-giới-tính nơi cây, nơi đá, hay quan sát Pháp-giới-tính nơi tự tâm thì có phần dễ nhập với Pháp-giới-tính hơn là khi xét nhận được Pháp-giới-tính nơi cây, nơi đá. "Vì thế Phật thường dạy người đời tu chứng Pháp-giới-tính nơi tự tâm mình và gọi Pháp-giới-tính đó là tâm tính. "Song tâm tính vốn là Pháp-giới-tính chứ không phải tính riêng của tự tâm và khi chứng ngộ được tâm tính rồi thì của tâm riêng cũng không còn nhiều nữa. Phật thuyết pháp theo căn cơ của chúng sinh, nên pháp của Phật khi thấp khi cao, khi quyền, khi thật, khác nhau. Nhưng dầu Phật dạy Tam quy, ngũ giới, thập thiên, dạy tứ đế, thập nhị nhân duyên hay dạy về pháp tính, pháp tướng, tâm tính, chân như, chân không, thật tướng vân vân… Phật luôn luôn nhắm mục đích chỉ bày cho chúng sanh chứng ngộ trí tuệ của Phật, nghĩa là chứng ngộ Pháp-giới-tính(64).
Như
ta đã biết, hội An Nam Phật Học không những đã có được
sự yểm trợ của hầu hết các phần tử trong sơn môn mà
còn có được sự cộng tác tích cực của những vị tăng
sĩ trẻ tuổi và có học của sơn môn đào tạo nữa. Sự
cộng tác này phần lớn nằm trong phạm vi hoằng pháp: giảng
diễn cho tín đồ, giáo huấn học tăng, trước thuật bài
vở và kinh sách. Tuy nhiên nhìn hội An Nam Phật Học với những
thành quả mà nó thu lượm được chỉ là mới nhìn thấy
một bông hoa nở trên một nhành cây mà chưa thấy tự thân
cái cây ấy. Tuy nói rằng Phật giáo suy yếu, cần phải phục
hưng, nhưng nếu căn bản và tiềm lực không có thì sự phục
hưng ấy sẽ trở nên rất khó khăn. Sở dĩ ta có được một
Mật Khế hay một Lê Đình Thám là nhờ ta đã có được một
Giác Tiên chẳng hạn thì ta thấy được Tâm Minh, bổn
sư của ông. Tuệ Pháp, giáo thọ của ông. Viên Thành,
bạn
thân của ông, Giác Nhiên, sự đệ của ông và Phước
Hậu, Đắc Ân, Tịnh Hạnh v.v… tức là những người
đã chấp nhận làm chứng minh đạo sư cho hội An Nam Phật
Học do ông sáng lập. Nhìn lại cuộc đời những vị đó
thì ta có thể có một ý niệm về những tiềm lực của đạo
Phật đã đưa tới sự chấn hưng của Phật Giáo Trung Kỳ.
Thiền
sư Tâm Tịnh bổn sư của Giác Tiên là một trong những
đệ tử xuất sắc của thiền sư Lương Duyên, người
đã đắc pháp với thiền sư Nhất Định, tổ khai sơn
chùa Từ Hiếu(65).
Như ta đã biết, ngoài thiền sư Lương Duyên, tổ Nhất
Định còn có hai người đệ tử khác là Cương Kỷ
và Linh Cơ. cũng như Lương Duyên, hai thiền sư Cương
Kỷ và Linh Cơ đã đào tạo được và để lại cho sơn môn
Thừa Thiên nhiều vị tăng sĩ xuất sắc. Ngoài Tâm Tịnh,
thiền sư Lương Duyên còn có những đệ tử xuất sắc khác
như Tâm Quảng, Tâm Thể và Tâm Truyền. Thiền sư Tâm Tịnh
đã từng giữ chức Tăng Cương chùa Diệu Đế. Ông tên là
Nguyễn Hữu Vinh. Phát xuất từ chùa Từ Hiếu, ông đã kế
vị thiền sư Huệ Đăng làm trú trì chùa này trong nhiều năm.
Năm 1904, để có nhiều thì giờ tu tập hơn, ông thường chức
vị trú trì tổ đình cho thiền sư Huệ Minh và đến cất
am Thiếu Lâm ở chùa Tây Thiên để tu hành. Chùa này ở một
vùng đồi nhỏ, có trồng nhiều thông, ở về phía Tây nam
núi Ngự Bình. Ông mang theo về Tây Thiên một người đệ
tử: đó là thiền sư Giác Tiên, hồi đó mới 24 tuổi.
Ở
Tây Thiên ông thu nhận thêm nhiều vị đệ tử, trong đó có
các vị Giác Nguyên và Giác Nhiên. Cùng với Giác Tiên, hai
vị này đã từng đóng góp cho phong trào chấn hưng Phật giáo
và đã trở thành những nhân vật rường cột cho Phật giáo
sau này. Thiền sư Tâm Tịnh mở lớp dạy Phật pháp cho các
đệ tử và những người khác đến cầu học với ông. Tiếng
thơm đạo hạnh của ông được đồn xa, và trong số những
người hâm mộ ông có cả vua Khải Định. Ông vua này thường
hay để xe cộ và thị vệ dưới đồi và đi bộ một mình
lên chùa. Một hôm thiền sư Tâm Tịnh gặp vua ở trước am
Thiếu Lâm, liền chắp tay chào và niệm: "Nam Mô Khải Định
Vương Bồ Tát". Vua Khải Định chưa hỏi lý do gì thì ông
giải thích: "Quốc Vương là một vị Bồ Tát hộ pháp".
Vua hỏi thêm thì ông cho biết hiện giờ ông đang tổ chức
Đại Giới Đàn tại chùa Từ Hiếu mà thiếu phương tiện
tài chính. Vua Khải Định bèn hứa cúng dường những phương
tiện còn thiếu ấy. Đó là vào năm 1924. Giới Đàn này đã
được thiền sư Huệ Minh tổ chức vào ngày 16, 17, 18 và 19
tháng Bảy dương lịch. Số giơi tử là 450 vị, trong đó có
300 tăng ni. Những thiền sư có mặt trong hội đồng Hộ Giới
của giới đàn này là: thiền sư Tâm Tịnh (tăng cương chùa
Diệu Đế, đàn đầu hòa thượng), thiền sư Trương Văn Luận
(tăng cương chùa Thiên Mụ, giáo thọ), thiền sư Phạm Gia
Khánh (trú trì chùa Báo Quốc, đệ nhất tôn chứng), thiền
sư Viên Thành (trú trì chùa Tra Am, đệ nhị tôn chứng), thiền
sư Đặng Kỳ Đỉnh (trú trì chùa Thiên Mụ, đệ tam tôn chứng),
thiền sư Phúc Hậu (trú trì chùa Linh Quang, đệ tứ tôn chứng),
thiền sư Đỗ Giác Viên (tự trưởng chùa Viên Thông, đệ
ngũ tôn chứng), thiền sư Hoằng Nguyện (tự trưởng chùa
Viên Thông, đệ lục tôn chứng), thiền sư trú trì chùa Chúc
Thánh (Quảng Nam, đệ thất tôn chứng).
Ta
đã được đọc bài kệ phú pháp của ông trao cho thiền sư
Giác Tiên trong phần lược sử của thiền sư này.
Thiền
sư Tâm Tịnh thuộc về thế hệ thứ 41 dòng Lâm Tế. Ông
mất năm 59 tuổi. Thiền sư Viên Thành ở chùa Tra Am, một
thiền sư thi sĩ nổi tiếng thời ấy, tặng đôi câu đối
như sau:
Tứ
thập nhất đại Lâm Tế chấn thiền phong, đào chú công thâm,
thùy thụ đương đầu hát bổng,
Ngũ
thập cửu niên Diêm Phù thùy hóa tích, trí bi nguyện mãn,
nhi kim tát thủ hoàn gia!
Hai
câu đối Nôm sau đây được ni chúng và nữ cư sĩ ở Huế
đưa tặng:
Chốn
Song Lâm mây ẩn bóng Ưu Đàm, đứt nối tiếng chuông, dép
cỏ đi về còn tưởng tượng.
Miền
Thiếu thất trăng lồng lộng gương Bát Nhã, mênh mang biển
học, thuyền từ che chở biết nhờ ai?
|
(52)Giác
Tiên chết vào năm 1936 chứ không phải vào năm 1934 như Lê
Đình Duyên viết trong bài Tiểu Sử Đạo Hữu Tâm Minh Lê
Đình Thám in ở đầu sách Kinh Thủ Lăng Nghiêm xuất
bản tại Sài Gòn năm 1973. Mật Khế, đệ tử của Giác Tiên,
tịch năm 1935, trước khi tịch đã được thầy trao cho một
bài kệ. Đuốc Tuệ (số 54 ra ngày 1.2.1937) nói Giác
Tiên viên tịch năm 1937 ngày 17.1 trong khi Viên Âm báo
tin Giác Tiên viên tịch trong số 23 ra vào tháng Chín – tháng
Mười năm 1936. Ngày thị tịch của Giác Tiên, theo Viên
Âm, là ngày mồng bốn tháng Mười âmlịch năm Bảo Đại
thứ 11 tức là ngày 17. 11. 1936. Tuy tạp chí Viên Âm
số 23 đề ngoài bìa là vào tháng September-Octobre 1936, kỳ
thực số bào này in xong sớm nhất là vào ngày cuối tháng
November mời chuyên chở được tin trên.
1-
Vers le mieux sans un répit
En
avant, d’un même ferveur
La
terre résonnera
Sous
nos pas triomphateurs
2-
Semons loin la vérité
allons
done, levons-nous tous
la
chaleur des belles siitras
donnera
Paix et Bonheur.
3-
A l’exemple des Arabant
s’exemple
des Arabant
s’en
allant répandre leur zèle
apprenons
au monde qui râle
ce
qui cause la douleur.
4-
Quand partout rayonneront
l’
Amour et la Pureté
Touté
les voix entonneront
Ce
refrain plein de vigueur!
(62)Ví
dụ Cặp Mắt Của Thái Tử Câu Na La của Lê Hữu Hoài
(Viên Âm số 52, tháng 9 1942) và Ưu Đà Di của
Trực Hiên (Viên Âm số 58, tháng Ba 1953).
(64)Kinh
Thủ
Lăng Nghiêm do Tâm Minh Lê Đình Thám dịch gồm 2 tập. Ban
Hoằng pháp, Hội Phật Giáo Thống Nhất Việt Nam (miền Bắc)
ấn hành, 1964 (N.H.C)
(65)Sách
Việt
Nam Phật giáo Sử Luận, Tập II, lần inn thứ nhất ghi
nhầm thiền sư Nhất Đinh sinh năm 1784 (Giáp thìn) cho chính
xác, đồng thời ghi thêm một vài sửliệu về thiền sư này.
Thiền sư Nhất Định họ Nguyễn, sinh tại làng Trung Kiên,
tổng Bích La, huyện Đăng Xương, tỉnh Quảng Trị. Ông được
thế độ với thiền sư Phổ Tịnh chùa Thiên Thọ (Báo Quốc)
năm 18 tuổi, và thụ đại giới tại chùa Quốc ân với thiền
sư Mật Hoàng năm 1814. thiền sư Mật Hoàng có ban cho ông bài
kệ sau đây:
Nhất
định chiếu quang minh
Hư
Không nguyệt mãn viên
Tổ
tổ truyền phúc chúc
Đạo
minh kế Tánh Thiên
Tánh
Thiện là pháp danh của ông. Năm 1816, khi thiền sư Phổ Tịnh
viên tịch, ông pảhi trực tiếp điều khiển chùa Báo Quốc.
Năm 1830 ông được triều đình cấp giới đao và độ điệp.
Năm 1835 ông được bộ Lễ cung thỉnh trụ trì chùa Linh Hựu.
Vua Minh Mạng, nhân dịp này có ban cho ôngmột chứng từ, trong
đó vua khen ông là "giới luật nghiêm tịnh, thiền cơ thẩm
đạt" (cẩn trì giới luật, xòa ngộ thiền cơ). Tương An
Quận Vương, con thứ 12 của vua Gia Long, rất hâm mộ ông,
đã có lần tặng ông bài thơ sau đây:
Dạ
tụng Pháp Hoa kinh
Thân
tâm bách luyện tinh
Phòng
vô phiến trần nhập
Bích
quải điểm đăng minh
Tích
hữu Uyên Minh thức
Tâm
như Huệ Viễn thanh
Chúng
nhân đồ ngột ngột
An
đắc thấu sinh sinh
Dịch:
Đêm
tụng Pháp hoa kinh
Thân
Tâm mãi chuyên tinh
Bụi
hồng không mảnh lạc
Trên
vách ngọn đèn xanh
Dấu
Uyên Minh ngời sáng
Lòng
Huệ Viễn trong thanh
Kẻ
phàm nhiều lận đận
Ai
thấy được chân hình?
Năm
1839, ông được sắc phong Tăng Cương chùa Giác Hoàng. Ông
từ bỏ chức vụ này vào năm 1834, năm ông 60 tuổi và về
lập An Dưỡng Am trên núi Dương Xuân. Chùa Báo Quốc thì ông
giao lại cho pháp đệ là thiền sư Nhất Niệm trong coi. Tại
An Dưỡng Am, ông từ chối mọi sự cúng dường, cùng hai đệ
tử là thiền sư Hải Thuận và Hải Thiều, cuốc đất, trồng
khoai, gieo bắp để tự túc. Các quan trong triêu thường lui
tới thăm viếng và xin phép ông dựng chùa tại đây, nhưng
ông nhất định không chịu. Trước Am, ông đề hai câu:
Thân
đới quán châu nhà tuế nguyệt
Thủ
trì tích trượng nhạo vân sơn
Dịch:
Chuỗi
tràng đeo cổ nhàn năm tháng
Tích
trượng cầm tay vui níu mây.
Ông
mất năm 1847, bốn năm sau khi dựng An Dưỡng Am. Ông mất rồi
thì năm sau (1848) thiền sư Hải Thiệu (Cương Kỷ) mới chịu
xây chùa với sự ủng hộ của các thái giám. Năm ấy vua
Tự Đức mới lên ngôi. Ông ban sắc tứ cho chùa là Từ Hiếu.
Chùa này được đại trùng tu năm 1894, khi thiền sư Tâm Tịnh
còn làm tự trưởng và Thiền sư Huệ Minh là trị sự. Thiền
sư Hải Thiệu tịch vào năm 1899. Cao đệ của thiền sư Nhất
Định còn có Thiền sư Hải Thuận (Lương Duyên) và Hải Toàn
(Linh Cơ). Thiền sư Hải Thuận làm trú trì chùa Báo Quốc
và thiền sư Hải Toàn sáng lập chùa Tường Vân.
|