Việt Nam Phật Giáo Sử Luận
Nguyá»…n Lang
Nhà Xuất Bản Văn Học - Hà Nội 1979

Mục Lục
Tập Một
Tập Hai
Tập Ba
TẬP I

CHƯƠNG XIII

THIỀN SƯ PHÁP LOA
(1248-1330)

CUỘC ÐỜI TU HỌC CỦA PHÁP LOA
Người chính thức nối dòng Trúc Lâm là tổ thứ hai là thiền sÆ° Pháp Loa, tên tục là Ðồng Kiên CÆ°Æ¡ng. Ông sinh năm 1284. Lá»›n lên ông rất thông minh, nói năng hiền từ, không ăn cá thịt. Mẹ ông hồi trÆ°á»›c đã sinh tá»›i 8 đứa con gái; không muốn sinh thêm nữa khi có thai ông, bà đã uống thuốc phá thai. Phá tá»›i bốn lần mà thai không hÆ°, vì thế khi sinh, ông được đặt tên là Kiên CÆ°Æ¡ng. Năm 1304, ông được 21 tuổi. Hồi ấy Trúc Lâm Ä‘ang Ä‘i du hành các miền thôn quê, phá trừ dâm từ, thuyết pháp và bố thí, gặp Trúc Lâm ông xin Ä‘i xuất gia. Trúc Lâm liền gá»­i ông tá»›i tham học vá»›i hòa thượng Tính Giác ở Quỳnh Quán. Hồi đó ông được Trúc Lâm đặt tên là Thiện Lai. Thiện Lai hỏi hòa thượng Tính Giác đủ các loại câu hỏi, nhÆ°ng hòa thượng chÆ°a khai thị cho ông được. Ông đọc kinh Lăng Nghiêm đến Ä‘oạn A Nan bảy lần hỏi về vị trí của tâm và Ä‘oạn nói về khách trần, thì bổng thấy có chá»— sở ngá»™. Má»™t hôm ông về tham yết Trúc Lâm, gặp lúc Trúc Lâm Ä‘ang thăng đường cá»­ bài tụng Thái DÆ°Æ¡ng Ô Kê, thì trong tâm chợt tỉnh. Trúc Lâm biết thế liền bảo Ä‘i theo bên mình. Má»™t hôm, ông trình Trúc Lâm má»™t bài tụng về " tam yếu" bị Trúc Lâm gạch má»™t gạch dài từ trên xuống dÆ°á»›i. Bốn lần thỉnh cầu, Trúc Lâm vẫn không chỉ giáo, bảo về tá»± mình tham khảo. Ðêm ấy, ông về phòng nổ lá»±c thiền quán. Quá nữa đêm, nhận thấy hoa đèn rụng, ông bèn đại ngá»™. Liền Ä‘em chá»— sở ngá»™ ấy lên trình lên Trúc Lâm và được ấn chứng. Từ đó ông phát nguyện tu theo 12 hạnh đầu đà, bắt chÆ°á»›c Trúc Lâm. Năm 1305, ông được Trúc Lâm cho thọ giá»›i Tỳ KhÆ°u và Bồ Tát, và cho hiệu là Pháp Loa. Năm 1306, ông được lập làm giảng chủ chùa Báo AÂn. Năm 1307 cùng vá»›i 6 vị đệ tá»­ khác của Trúc Lâm, ông được Trúc Lâm dạy cho bá»™ Ðại Tuệ Ngữ Lục trên am Quán Trú. Tháng năm năm đó, trên am Ðình Trú, vào ngày rằm, ông được Trúc Lâm trao y bát và tâm kệ. NhÆ° vậy là ông được đắc pháp chỉ sau hÆ¡n 3 năm tu học. Mồng má»™t tết năm Mậu thân 91308) ông được chính thức làm trụ trì chùa Báo AÂn ở Siêu Loại, và được giao cho chức vụ Tổ thứ hai của thiền phái Trúc Lâm. Năm đó nhà nÆ°á»›c cÅ©ng cho chùa 100 mẫu ruá»™ng và cấp người cày để lấy hoa lợi cho chùa. 
Pháp Loa mất năm 1330, thọ 47 tuổi. Ông tu nhÆ° vậy được 26 năm vá»›i 23 năm trong chức vụ lãnh đạo giáo há»™i. Cuá»™c đời hành đạo của ông cÅ©ng rất hoạt Ä‘á»™ng không kém gì Trúc Lâm. 

Trong thời gian Pháp Loa hành đạo, số lượng tự viện của giáo hội Trúc Lâm tăng lên rất nhiều, phong trào học Phật lan rộng, số người xuất gia và quy y cũng tăng gia rất mau chóng. Trong giới người quyền quý, cũng có nhiều người xuất gia hoặc quy y. Nhưng Phật sự đáng kể nhất trong đời Pháp Loa là sự ấn hành Ðại Tạng Kinh.

ÐẠI TẠNG KINH TRIỀU TRẦN
Tháng hai năm Ất mùi (1295) có sứ nhà Nguyên là Tiêu Thái Ðăng sang. Khi Thái Ðăng về, vua Anh Tông cho ná»™i viên ngoại lang là Trần Khắc Dụng và Phạm Thảo cùng Ä‘i theo. Mục đích là thỉnh má»™t ấn bản Ðại Tạng Kinh má»›i nhất của Trung Hoa. Ấn bản này sau sau được cất ở phủ Thiên Trường. Ðại Việt Sá»­ Ký Toàn ThÆ° chép là " bản phó được in để lÆ°u hành". Sách Tam Tổ Thá»±c Lục nói đến năm 1311, nghÄ©a là ba năm sau khi Trúc Lâm tịch, Anh Tông ban chiếu Tục San Ðại Tạng Kinh, nhÆ° vậy là việc khắc bản được bắt đầu từ năm 1295 hoặc đầu năm 1296, rồi công việc bị gián Ä‘oạn vào năm 1308 khi Trúc Lâm mất, cho đến năm 1311 má»›i lại tiếp tục Pháp Loa đã ủy cho Bảo Sát, đệ tá»­ đầu tay của Trúc Lâm và là sÆ° huynh của Pháp Loa, chủ trÆ°Æ¡ng việc khắc bản. Ấn bản Ðại Tạng Kinh được thỉnh từ Trung Hoa năm 1295 là ấn bản nào? Ðây là ấn bản thá»±c hiện trong khoảng từ năm 1278 tá»›i năm 1294 tại chùa Phổ Minh ở Hàng Châu, gồm có 1.422 mục, 6.010 quyển, đóng lại trong 587 tập. Ðó là ấn bản Ðại Tạng Kinh đầu tiên được thá»±c hiện dÆ°á»›i triều Nguyên. Tiêu Thái Ðăng qua Việt Nam năm 1295, vừa lúc ấn bản này má»›i được thá»±c hiện xong chừng má»™t năm. Cố nhiên là ông ta đã nói vá»›i vua Anh Tông về ấn bản này cho nên vua má»›i ủy hai người Ä‘i theo về Tàu để thỉnh cho được má»™t bá»™. Năm 1295, Trúc Lâm còn làm thái thượng hoàng, chÆ°a xuất gia. Ta có thể nói rằng chính Trúc Lâm dã bảo vua Anh Tông làm việc ấy. 
Công việc khắc bản gỗ Ðại Tạng Kinh đã tiến hành trong bao lâu? Ta chỉ thấy nói vào tháng chạp năm Kỷ mùi (1319), tăng sĩ và cư sĩ cùng hiến máu in một Ðại Tạng Kinh trên 5.000 quyển để an trí tại chùa Quỳnh Lâm. Ðây có lẽ là bản in đầu tiên để khánh thành; chính Pháp Loa đã kêu gọi việc hiến máu. Như vậy là việc khắc bản đã hoàn thành vào năm 1319; thời gian khắc bản là 24 năm, kể cả ba năm công việc bị gián đoạn. Sách Sách Tam Tổ Thực Lục cũng ghi năm 1329 Pháp Loa lại cho in Ðại Tạng Kinh. Ấn bản Ðại Tạng Kinh được thực hiện tại kinh đô Việt Nam do Bão phác chủ trương, tương đối ngắn hơn ấn bản 1294 của nhà Nguyên. Vì Bão Phác trong khi tục san đã bỏ đi một số các kinh mục không thông dụng. Số quyển còn lại trên 5.000 quyển so với số 6.010 quyển của ấn bản chùa Phổ Ninh. Sách Sách Tam Tổ Thực Lục hai lần dùng từ ngữ " trên 5.000 quyển" để nói về Ðại Tạng Kinh đời Trần mà không nói con số đích xác. Có lẽ là vì có nhiều tác phẩm tuần tự được khắc bản để thêm vào cho tạng kinh vừa được thực hiện. Sách Sách Tam Tổ Thực Lục có chép rằng vua Anh Tông có viết và khắc bản các tác phẩm Thiền Lâm Thiết Chủy Ngữ Lục, Trúc Lâm Hậu Lục, Ðại Hương Hải Ấn Thi Tập, Thạch Thất Mị Ngữ và Tăng Già Toái Sự (tất cả đều của Trúc Lâm), để vào trong Ðại Tạng Kinh mà phát hành. Những tác phẩm của Trần Thái Tông như Khóa Hư Lục, Thiền Tông Chỉ Nam, Kim Cương Tam Muội Kinh, Lục Thì Sám Hối Khoa Nghi và của Tuệ Trung như Tuệ Trung Thượng Sĩ Ngữ Lục hồi đó chắc chắn cũng đã được đưa vào Ðại Tạng

Ta nên biết việc khắc bản Ðại Tạng Kinh là một công trình vĩ đại mà không có chùa nào hồi đó đủ sức một mình tự làm. Bão Phác chắc hẳn đã thực hiện ấn bản này với sự ủng hộ tận lực của triều đình, và dưới quyền thiền sư chắc chắn có hàng trăm người viết chữ và có hàng trăm người khắc bản. Chắc rằng nếu không có sự trợ lực về tài chính và nhân công của chính quyền thì Bão Phác đã không thế nào làm được việc ấy. Hai mươi năm trời đã được đề ra để thực hiện ấn bản, thời gian này có thể gọi là ngắn ngũi. Rất tiếc ta không còn giữ lại được một bản gỗ nào hoặc một quyển kinh nào để có thể đánh giá được kỹ thuật ấn loát thời đó.khi nhà Minh xâm chiếm Ðại Việt, tướng Trương Phụ đã thu góp hết cả mọi sách cổ kim chở về Kim Lăng (*). Mộc bản Ðại Tạng Kinh hoặc đã bị quân minh chở đi hoặc là thiêu hủy. Những công trình xây dựng một nền văn học độc lập của nước ta đã bị Trương Phụ phá hủy quá nhiều.

NHỮNG TÁC PHẨM CỦA PHÁP LOA
Pháp Loa cÅ©ng có chú giải nhiều kinh Ä‘iển, sáng tác nhiều sách giáo khoa Phật học và biên tập nhiều nghi thức. Những tác phẩm của thiền sÆ° hẳn cÅ©ng đã được Ä‘Æ°a vào trong Ðại Tạng nhà Trần. Sau đây là những sách của ông làm: 
1) Thạch Thất Mị Ngữ Niêm Tụng: Những lưòi nhận xét và những bài kệ tụng viết về tác phẩm Thạch Thất Mị Ngữ của Trúc Lâm. 

2) Tham Thiền Yếu Chỉ: Soạn năm 1322 theo lời yêu cầu của thượng hoàng Minh tông. Sau đó Minh Tông ban hiệu cho Pháp Loa là Minh Giác. 

3) Kim Cương Trường Ðà La Ni Kinh Khoa Chú: Phân tích và chú giải kinh Kim Cương Trường Ðà La Ni.

4) Pháp Hoa Kinh Khoa Sớ: Phân tích và luận giải kinh Pháp Hoa

5) Lăng Già Kinh Khoa sớ: Phân tích và luận giải kinh Lăng Già

6) Bát Nhã Tâm Kinh Khoa Sớ: Phân tích và luận giải Tâm Kinh Bát Nhã

7) Pháp Sá»± Khoa Văn: Về các nghi thức và sá»› Ä‘iệp dùng trong những lá»… lược Phật Giáo. 

8) Ðộ Môn Trợ Thành Tập: Các nghi thức về cúng đàn chẩn tế. 

9) Nhân VÆ°Æ¡ng Há»™ Quốc Nghi Quỹ: Soạn riêng cho vua Minh Tông dùng. 

10) Tuệ Trung Thượng SÄ© Ngữ Lục: Biên tập những thiền ngữ và thi tụng của Tuệ Trung. 

Các sách khoa sớ 3,4,5 và 6 là những sách giáo khoa Phật học. Những tác phẩm trên đều thất lạc, duy có tác phẩm Tham Thiền Yếu Chỉ, chỉ được giữ lại một phần in dưới đầu đề là Thiền Ðạo Yếu Học, thấy đặt nằm sau phần lịch sử của Pháp Loa trong Sách Tam Tổ Thực Lục. Sách Tam Tổ Thực Lục cũng có nói rằng chính thiền sư Pháp Loa đã đề lời Bạt cho Ðại Tạng Kinh đời Trần. Bài Bạt này viết vào năm 1321. Tám tác phẩm đầu của Pháp Loa đều được khắc và in năm 1323. Riêng tác phẩm thứ 9 soạn theo lời vua Anh Tông để vua dùng hằng ngày.

PHÁT TRIỂN GIÁO HỘI
Số người xuất gia và gia nhập giáo há»™i Trúc Lâm càng ngày càng đông. Tháng Chín năm Quý Sá»­u (1313) Pháp Loa phụng chiếu đến cÆ° trú tại chùa VÄ©nh Nghiêm ở LÆ°Æ¡ng Giang, đặt văn phòng trung Æ°Æ¡ng của giáo há»™i, kiểm tra tá»± viện và làm sổ tăng tịch. Ðây là lần đầu tiên trong lịch sá»­ Phật Giáo Việt Nam tăng sÄ© có hồ sÆ¡ tại Giáo Há»™i Trung Ương. Pháp Loa thấy số lượng tăng sÄ© đông quá liền quyết Ä‘inh ba năm má»›i có má»™t lần Ä‘á»™ tăng. Giá»›i đàn ba năm được tổ chức má»™t lần và má»—i lần số người xin thụ giá»›i bị thải ra có đến hàng nghìn người. Tính đến năm 1329, số tăng sÄ© được xuất gia trong những giá»›i đàn do giáo há»™i Trúc Lâm tổ chức dÆ°á»›i quyền lãnh đạo của Pháp Loa là trên 15.000 vị. Về tá»± viện, năm 1313 có tá»›i trên 100 ngôi chùa thuá»™c vào giáo há»™i Trúc Lâm (Sách Tam Tổ Hành Trạng của Ngô Thì Nhậm nói có hÆ¡n 800 ngôi chùa - Ngô Thì Nhậm lấy tài liệu trong Tam Tổ Thá»±c Lục. Bản Tam Tổ Thá»±c Lục ấn hành năm 1943 tại Hà Ná»™i ghi " già lam, phàm bách dÆ° sá»›" , chữ Phàm có thể là chữ Bát viết lầm ra). Pháp Loa làm rất nhiều việc xây dá»±ng. Tại chùa Báo AÂn, năm 1314 ông đã xây dá»±ng được 5 cây Bảo tháp, hai cÆ¡ sở hành đạo lá»›n (Quỳnh Lâm và Báo AÂn) và trên 200 tăng đường. Về việc đúc tượng, Pháp Loa đã đúc tá»›i 1.300 tượng Phật lá»›n nhỏ bằng đồng. Vua Anh Tông nhân ngày lên làm Thái Thượng Hoàng đã cho đúc tượng đồng ba vị Phật Di Ðà, Thích Ca và Di Lặc, má»—i tượng cao 17 thÆ°á»›c ta. Có thể nói là bất Ä‘á»™ng sản cúng vào cho giáo há»™i, phần lá»›n là những người có quyền thế và giàu có trong triều. Năm 1308, vua Anh Tông đã lấy 100 mẫu ruá»™ng riêng của gia đình nhà Trần để cúng vào chùa Báo AÂn. Năm 1312 Anh Tông cúng dường năm vạn quan tiền để Pháp Loa bố thí cho dân nghèo. Vua cÅ©ng dâng cúng thuyền bè và kiệu phu cho chùa dùng, nhÆ°ng Pháp Loa từ chối không nhận. Vua lại sai lấy 500 mẫu ruá»™ng từ Niệm NhÆ° Trang cúng vào chùa làm bất Ä‘á»™ng sản. Năm 1313, Anh Tông lại theo lời di chiếu của Nhân Tông lấy những bảo vật thờ tá»± tam bảo của mẹ mà cúng dường vào chùa Báo AÂn, lại cúng dường vật liệu xây dá»±ng và cung cấp thợ phu để làm thêm chùa tháp. Cùng trong năm đó, Bảo Từ hoàng thái hậu đã quy y tại chùa này. Năm 1315, Anh Tông lấy 30 mẫu ruá»™ng của người cung nhân cÅ© họ Phạm cúng vào chùa. Năm 1317 tÆ° đồ Văn Huệ VÆ°Æ¡ng cúng dường 4.000 lÆ°ng tiền, và má»™t người tên Nguyá»…n Trường ở Lâm Ðộng cúng dường 75 mẫu ruá»™ng vào chùa Quỳnh Lâm. Năm 1318 Hoa LÆ°u cÆ° sÄ© họ Võ cúng dường chùa Quỳnh Lâm 20 mẫu ruá»™ng. Năm 1324 tÆ° đồ Văn Huệ VÆ°Æ¡ng và Thượng Trân công chúa cúng dường tá»›i 900 lạng vàng để đúc tượng Di Lặc. Con trai của Nhật Trinh công chúa là Di Loan cÆ° sÄ© cúng dường 300 mẫu ruá»™ng tại phủ Thanh Hoa, BảoTừ hoàng thái hậu cúng dường 222 mẫu đất ở phủ An Hoa. Sau đó, TÆ° Ðồ Van Huệ VÆ°Æ¡ng lại cúng 300 mẫu ruá»™ng ở Gia Lâm. Lúc này Ä‘iền địa cúng vào cho riêng chùa Quỳnh Lâm đã lên tá»›i trên 1.000 mẫu. Chùa có tá»›i 1.000 tá Ä‘iền làm ruá»™ng. Ta không biết lợi tức của trên 1.000 mẫu ruá»™ng này có được chi dụng vào các việc Phật sá»± và tăng sá»± ở các chùa khác trong giáo há»™i Trúc Lâm hay không. Sá»± ủng há»™ thái quá đối vá»›i Phật Giáo này sẽ gây nhiều phản ứng từ phía nho gia vốn nghÄ© rằng Nho Giáo đáng lý phải có địa vị của Phật Giáo lúc bấy giờ. 
Ta biết rằng hồi Anh Tông thỉnh Trúc Lâm về cung để thụ Bồ Tát Tâm Giá»›i, vÆ°Æ¡ng công bách quan đã xin thụ pháp quy y khá nhiều. trong đời Pháp Loa, giá»›i quyền quý tiếp tục xu hÆ°á»›ng về đạo Phật. Năm 1316 Anh Tông xin được chính thức thụ Tại Gia Bồ Tát Giá»›i (trÆ°á»›c đây chỉ má»›i Tâm Giá»›i, chÆ°a bị ràng buá»™c cụ thể về phÆ°Æ¡ng diện hình thức vào 58 giá»›i Ä‘iều của Bồ Tát). 

Năm 1319, Pháp Loa nhận lời mời của quốc phụ thượng tế Quốc Chẩn vào giảng Ðại Tuệ Ngữ Lục trong phủ An Hoa. CÅ©ng năm ấy, ông trao giá»›i tại gia cho Hoa DÆ°Æ¡ng công chúa. Năm 1320, Tuệ Nhã đại vÆ°Æ¡ng xin được thụ Bồ Ðề Tâm Giá»›i. Năm 1322 nhiều người trong triều đình đóng góp vào việc cúng dường để đúc 1.000 tượng Phật, trong số đó có Bảo Từ hoàng thái hậu, Bảo Huệ Quốc mẫu, Bảo Vân công chúa, tÆ° đồ Văn Huệ VÆ°Æ¡ng, Uy Huệ VÆ°Æ¡ng, HÆ°ng Uy Hầu, Hoài Ninh Hầu, Ðặng Trung Tá»­, Ðoàn Nhữ hài... (tÆ° đồ Văn Huệ VÆ°Æ¡ng xuất gia vào năm  này). năm 1323, Văn Huệ VÆ°Æ¡ng và Uy Huệ VÆ°Æ¡ng đến chùa Báo ân xin thụ Bồ Ðề Tâm Giá»›i và pháp quán đỉnh; Bảo Vân công chúa, rồi Bảo Từ hoàng hậu và Văn Huệ VÆ°Æ¡ng thỉnh Pháp Loa giảng kinh Hoa Nghiêm. Năm 1324 Chiêu Từ hoàng thái phi công chúa (con của Quốc Chấn) và Lệ Bảo công chúa (con Chiêu Huấn VÆ°Æ¡ng) xuất gia... Về việc học Phật, tình hình cÅ©ng rất nhá»™n nhịp. Sợ giá»›i tăng sÄ© đông đảo mà không thể hiểu và thụ trì giá»›i pháp, năm 1322 Pháp Loa cho khắc bản cuốn Tứ Phần Luật (giá»›i luật Tỳ KhÆ°u) để in và phổ biến cho giá»›i tăng sÄ© học tập. Ông thỉnh cầu hai vị sÆ° huynh là Tông Cảnh và Bão Phác về chùa Siêu Loại mở những lá»›p dạy về Tứ Phần Luật cho tăng sÄ© và in 5.000 bản Tứ Phần Luật phát cho các học viên. Tông Cảnh và Bão Phác lúc này đã được tôn xÆ°ng làm quốc sÆ°: Tông Cảnh trú trì ở Tiên Du, còn Bão Phác ở núi VÅ© Ninh. Ngoài sá»± giảng dạy các kinh phổ thông nhÆ° Kim CÆ°Æ¡ng, Lăng Nghiêm, Viên Giác và các bá»™ lục nhÆ° Tuyết Ðâu Ngữ Lục, Tuệ Trung Thượng SÄ© Ngữ Lục, Ðại Tuệ Ngữ Luc, Pháp Loa còn pảhi giảng các kinh Niết bàn, Lăng Già, Pháp Hoa và nhất laø Hoa Nghiêm. Thiền học vào thời đại này đã mang nặng tính chất học hỏi và đàm thuyết. Việc học kinh Hoa Nghiêm đã trở nên má»™t phong trào trong thiền giá»›i. Pháp Loa đã giảng Hoa Nghiêm nhiều lần tại chùa Siêu Loại, Quỳnh Lâm, Dưỡng PhÆ°á»›c, Xí Thịnh Quang, An Lạc Tàng Viện, thấy sức yếu, ông liền nhờ Bích Phong Trưởng Lão giảng tiếp. Những buổi giảng nhÆ° thế rất đông người nghe. Khóa giảng năm 1322 ở chùa Báo AÂn chẳng hạn, có trên 1.000 người Ä‘i nghe. Những buổi giảng mà ít người Ä‘i nghe nhất cÅ©ng có năm sáu trăm người. Nhờ có bản gá»— tàng trữ tại chùa Báo AÂn nên kinh sách được ấn hành rá»™ng rãi, cung cấp đầy đủ cho nhu yếu học Phật khắp xứ. 

Pháp Loa có rất đông đệ tử. Trong số trên 15.000 người xuất gia trong các giới đàn của giáo hội Trúc Lâm tổ chức, có tới hơn 3.000 vị tới cầu pháp và đắc pháp với ông. Những vị đệ tử làm giảng sư nổi danh là Tuệ Nhiên, Tuệ Chúc, Hải Ấn, Hoằng Tế và Huyền Giác. Ngoài ra các vị đệ tử xuất sắc khác là Quế Ðường, Cảnh Ngung, Cảnh Huy và Tuệ Quán. Huyền Quang là đệ tử xuất gia với Bão Phác, có học với Trúc Lâm nhưng cũng cầu pháp với Pháp Loa. Huyền Quang là người rất giỏi về chữ nghĩa thi văn: ông có nhiệm vụ khảo duyệt và nhuận sắc mọi văn kiện quan trọng, nhất là những bản văn cần đc ấn hành. chính đoạn tiểu sử Pháp Loa trong sách Tam Tổ Thực Lục mà Trung Minh biên tập đã do ông hiệu khảo trước khi cho khắc bản.

YẾU TÔ MẬT GIÁO TRỞ THÀNH QUAN TRỌNG
Ở Trung Hoa lúc bấy giờ, nhà Nguyên đang trị vì và có khuynh hướng ủng hộ Mật Giáo. Ðại Tạng Kinh chùa Phổ Ninh chắc hản chịu ảnh hưởng nhiều về Mật Giáo, nghĩa là có thêm nhiều kinh bản về hệ thống giáo lý thần bí này. Phật Giáo đầu đời Trần đã không bị ảnh hưởng của Mật Giáo nhiều như ở đời Lý: tác phẩm của Thái Tông và Tuệ Trung chứng tỏ điều đó. Thiền học trong thời đại của Thái Tông, Thánh Tông và Nhân Tông tuy có thiên về sự học hỏi và có khuynh hướng văn chương, nhưng về ảnh hưởng Mật Tông đã nhẹ. Bắt đầu từ đời Anh Tông và Pháp Loa, ảnh hưởng này trở thành nặng nề trở lại. Năm 1318, vua Anh Tông xuống chiếu đi tìm vị tăng sĩ Ấn Ðộ tên là Ban Ðể Ða Ô Sa Thất Lợi về dịch Một cuốn kinh Mật Giáo tên là Bạch Tán Thần Chú Kinh. Pháp Loa để rất nhiều thì giờ vào việc trì chú (Tam Tổ Thực Lục nói: Sư thường ngày đêm trì chú lễ Phật). Ông cũng có phân tích và chú thích một kinh văn có khuynh hướng Mật Giáo gọi là Kim Cương Trường Ðà La Ni Khoa Chú. Năm 1311, có một vị tăng sĩ Ấn Ðộ tên Du Chi Ba Lam tới, xưng là 300 tuổi, theo Mật Giáo, có thể ngồi xếp bằng nổi lên mặt nước. Vị tăng này có một cô con gái tên là Ða La Thanh, được vua Anh Tông tuyển vào làm cung phi. Vào đời vua Minh Tông cũng có một vị tăng Mật Giáo Ấn Ðộ tên là Bồ Ðề Thất Lý sang, cũng có thể nổi lên mặt nước. Vua Anh Tông có vẻ ưa chuộng Mật Giáo. Vua được Pháp Loa làm lễ quán đỉnh năm 1320 trước khi băng. Nhiều người khác như Văn Huệ Vương và Uy Huệ Vương cũng đã xin nhận lễ quán đỉnh, một nghi thức Mật Giáo.
ANH TÔNG VÀ PHÁP LOA
Sách Ðại Việt Sử Ký Toàn Thư chép rằng ngày Anh Tông ốm nặng sắp băng. Bảo Từ hoàng thái hậu cho người đi mời Phổ Tuệ Tôn Giả tới làm phép quán đỉnh và lập đàn chay cầu nguyện (Phổ Tuệ là tôn hiệu mà vua Anh Tông ban tặng Pháp Loa vào tháng cháp năm Mậu ngọ (1318) sau khi Pháp Loa giảng xong bộ Tuyết Ðậu Ngữ Lục. Chính vua tự tay viết bốn chữ Phổ Tuệ Tôn Giả để ban tặng cho Pháp Loa). " Vua Anh Tông bệnh nặng. Phổ Tuệ xin vào để tỏ bày sự sống chết. Anh Tông sai trả lời rằng: nhà sư hãy ở đây, khi ta chết rồi, quan gia (tức là vua Minh Tông) có sai làm thế nào thì nhà sư tự làm, còn như việc sau thì nhà sư cũng chưa chết, biết đâu mà đem việc chết bày tỏ với ta". Ðại Việt Sử Ký Toàn Thư chép như vậy, sợ lầm. Anh Tông đối với Pháp Loa thường cung kính xưng là đệ tử. Sau khi thụ tại gia Bồ Tát Giới, Anh Tông rất thao thức muốn làm tròn bổn phận của một ông vua hộ pháp. Năm 1311, Anh Tông giao cho Pháp Loa trách nhiệm tục san Ðại Tạng Kinh, một công trình Phật sự lớn lao mà nếu nhà nước không tích cực ủng hộ thì giáo hội Trúc Lâm ít có cơ thực hiện nổi. Anh Tông cũng đã từng thỉnh mời Pháp Loa vào cung Tư Phúc giảng Ðại Tuệ Ngữ Lục (1312) và vào cung Thiên Trường để giảng Truyền Ðăng Lục (1318). Anh Tông cũng đã chuẩn bị để xuất gia nhưng chưa kịp thi hành thì lâm bệnh. Năm 1318 vua đã bắt đầu ăn chay. Sách Ðại Việt Sử Ký Toàn Thư chép: " Bây giờ thượng hoàng có ý muốn xuất gia, bảo cung nhân ăn chay. Cung nhân có người ngại, duy có nữ quan Nguyễn Thị Diên chặt ngón tay đem dâng. Thượng hoàng ngợi khen, ban cho 40 mẫu ruộng để làm lương ăn tu hành sau này. Sau Nguyễn Thị Diên quả nhiên xuất gia hiệu là ni sư Tịnh Quang". Những chi tiết trên cho biết là Anh Tông thực tâm tin đạo Phật và rất quý trọng Pháp Loa. Lời nói hắt hủi Pháp Loa gán cho anh Tông có lẽ được một sử thần nho gia ghét đạo Phật thêm vào. Có thể vì Anh Tông mệt quá không thể nói chuyện được với Pháp Loa muốn được nghĩ yên dôi chút trước khi nhắm mắt nên đã lắc đầu không muốn Pháp Loa vào, thế thôi. Trong trạng thái đó, bảo người ra nhắn một câu nói vô lễ, đó không phải là phong độ của một người như Anh Tông.
TƯ TƯỞNG THIỀN HỌC CỦA PHÁP LOA
NhÆ° trÆ°á»›c đã nói, những tác phẩm của Pháp Loa để lại ngày nay không còn, duy chỉ có má»™t phần của sách Tham Thiền Yếu Chỉ còn giữ lại dÆ°á»›i nhan đề Thiền Ðạo Yếu Học, in trong sách Tam Tổ Thá»±c Lục ngay sau phần nói về đời Pháp Loa. Thiền Ðạo Yếu Học có lẽ đã được ghép vào trong sách Tam Tổ Thá»±c Lục trong má»™t ấn bản tÆ°Æ¡ng đối gần đây. Xét ná»™i dung và nhất là lời ghi chú phía sau, ta có thể nói Thiền Ðạo Yếu Học là chính do Pháp Loa viết. NhÆ°ng lời ghi chú ấy nhÆ° sau: 
" SÆ° tịch năm 47 tuổi, được nối dòng sau 23 tuổi theo tông môn của DÆ°Æ¡ng Kỳ, nắm chỉ ý của Viên Ngá»™, ngày ngày đàm thiền thuyết pháp trong tinh thần " vô nhất pháp nhi khả đắc" , nÆ¡i nÆ¡i tiếp xúc Ä‘á»™ sinh, theo tinh thần " phi chúng sinh nhi bất lợi". Khi Ä‘i thì thấy trâu đã rống mặt trăng, khi đứng thì nghe ngá»±a gá»— hí gió; ngôi thì dá»±a vào gốc cây không bóng, nằm thì nghỉ lÆ°ng nÆ¡i không giường chiếu, nào ai có thể biết được sá»± tuyệt vá»›i của đời ngài. Kinh ChÆ° SÆ¡n Lâm nói: " Thiền tông chợ sáng" tức là nếu gặp ý chỉ ngoài ngôn ngữ ngữ thì không nên dính vao kiến văn, chứo kẹt vào nghÄ©a huyền diệu trong văn cú. Hãy khai mở tÆ° duy má»™t cách thong thả, nhiên hậu má»›i có thể hÆ°á»›ng về tông môn, đạt tá»›i chuyển ngá»™, má»›i có thể nắm tay tổ cùng Ä‘i... Nếu không thì cÅ©ng chỉ làm má»™t cuốn sách mọt gặm mà thôi vậy... Tôi tuy có duyên may kim cải, được gặp sách báu này, vẫn hổ thẹn là không có tài thổ phụng, để lạm biên vào thánh tích. NhÆ°ng nhờ ở chút công đức nhỏ mọn {khắc bản)} này mà mong báo được từ ân, và phụ mẫu nhiều đời.. Mong nhờ má»™t câu nói huyền diệu mà tất cả đều được thành chính giác. Ôi! GÆ°Æ¡m kiavì bất bình mà ra khỏi vỏ báu, thuốc kia vì trị bệnh mà giốc khỏi bình vàng, cho nên có kệ rằng: 

Ma cường pháp nhược, đạo suy vi

Phật tổ xưa kia đã liệu kỳ
Còn có lời vàng làm mẫu mực
Ai người đạt ngộ khỏi tìm chi".
Những lời trên cho ta thấy người viết đã có cái may mắn gặp được cuốn Thiền Ðạo Yếu Học của Pháp Loa (Pháp Loa mất năm 47 tuổi được đắc pháp năm 23 tuổi) trong má»™t thời đại Phật pháp suy vi (có lẽ cuối thế ká»· thứ mười bốn hay trogn thế ká»· thứ mười lăm). Ông ta mong công đức khắc bản cuốn sách này sẽ báo được bốn ân, và hy vọng đời sau có những người đọc sách của Pháp Loa mà đạt ngá»™. Tiếc là ta không thấy nghe tên người khắc bản và ngày tháng mà người ấy viết những dòng trên. 
Thiền Ðạo Yếu Học là má»™t tập mỏng, gồm có những bài sau đây: 
1) Lời khuyến lệ kẻ xuất gia tinh tấn hành đạo. 
2) Kể lại má»™t buổi khai đường đại tham của Trúc Lâm năm 1304. 

3) Lời khuyến cáo đại chúng về tam học của thượng thừa. 

4) Yếu thuyết về đại thừa. 

5) Phải am tường học thuật. 

Trong lời Khuyến lệ kẻ xuất gia tinh tấn hành đạo, Pháp Loa có nói về việc tìm thầy học đạo, phân biệt chân ngụy và thiện ác. Trong bài " Kể lại má»™t buổi khai đường đại tham của Trúc Lâm năm 1304" , Pháp Loa chỉ thuật lại những lời của Trúc Lâm khai thị đại chúng về tá»± tính thanh tịnh sẵn có của mọi người và ghi lại vài mẫu vấn đáp ngắn giữa Trúc Lâm và môn đệ. Bài lời khuyến cáo đại chúng về Tam Học của Thượng Thừa có thể nói là tÆ° tưởng của Pháp Loa về Thiền học. Trong bài này ông đề cập đến vấn đề kiến tính, về vấn đề có không của tâm ý, về vấn đề tham cứu thoại đầu và Ä‘Æ°a ra những lời khuyến lệ tu tập. Bài Yếu Thuyết Về Ðại Thừa là má»™t bài ngắn nói về trình tá»± nghe đạo, tÆ° duy đạo và thá»±c hành đạo (văn, tÆ°, tu). Bài Phải Am Tường Học Thuật nói về nhu yếu phải học trÆ°á»›c khi hành Ä‘á»™ng và những Ä‘iều thiết yếu thá»±c tiá»…n trong đời thu đạo: chọn bạn tốt để thân cận, học kinh pháp tìm nÆ¡i thu học thuận lợi. 

Tuy nhấn mạnh đến nhu yếu tìm học kinh điển nhưng Pháp Loa vẫn không quên đặt vấn đề kiến tính lên hàng đầu. Và theo đúng truyền thống Tuệ Trung, ông đặt vấn đề kiến tính trên căn bản Không chủ thể không đối tượng

" Người học Phật phải chú trọng trÆ°á»›c hết đến vấn đề kiến tính (thấy được bản tính mình). Thế nào gọi là thấy tính? Thấy đây là thấy cái không thể thấy. Cho nên thấy được cái thấy-không-thấy tức là chân tính hiện ra. Cái thấy về thể tính vốn vô sinh cho nên không có sá»± phát sinh của cái thấy ấy. Tính cách thá»±c hữu của Tính chính cÅ©ng là không, nhÆ°ng cái thấy chân thá»±c lại không thay đổi, cho nên nói là thấy tính má»™t cách chân thá»±c". 

Pháp Loa chỉ bày phÆ°Æ¡ng pháp thá»±c tiá»…n nhiếp tâm giữ ý (gọi là tịnh giá»›i) nhÆ° sau: 

" Thế nào là tịnh giá»›i? là trong 24 tiếng đồng hồ má»™t ngày, các Ä‘iều kiện ngoại cảnh không dấy Ä‘á»™ng, các Ä‘iều kiện ná»™i tâm không lung lay. Tâm không lung lay, thì cảnh đạt tá»›i trạng thái nhÆ° nhàn. Nhãn căn (mắt) không phải vì đối tượng mà hÆ°á»›ng ra ngoài, nhãn thức (cái thấy) không phải vì đối tượng sở duyên mà hÆ°á»›ng vào bên trong. Ý thức được rằng ra và vào không giao tiếp liên hệ cho nên đạt được trạng thái Ä‘iều chế ngÆ°ng chỉ. Tuy gọi là Ä‘iều chế ngÆ°ng chỉ mà không phải là bất Ä‘á»™ng. Ðối vá»›i các thứ khác nhÆ° nhÄ©, tá»·, thiệt, thân và ý cÅ©ng vậy. Ðó gọi là Ðại Thừa Giá»›i, là Vô Thượng Giá»›i, và Vô Ðẳng giá»›i. Tịnh giá»›i này, từ má»™t vị tiểu tăng cho đến má»™t vị đại tăng, ai cÅ©ng có thể duy trì và an trú trong đó được. Nhờ duy trì tịnh giá»›i mà kiên cố không dao Ä‘á»™ng. Sau đó má»›i tập thiền định, buông xả cả thân và tâm cùng má»™t lúc". 

Về phÆ°Æ¡ng pháp tham cứu thoại đầu, Pháp Loa dặn dò: 

" Tham thoại đầu thì chá»› để gián Ä‘oạn, phải nên tham cứu liên tục không xen kẻ má»™t ý niệm nào khác. Giữ đừng để nghiêng ngã, không trạo cá»­ cÅ©ng không hôn trầm(73), hoạt bát nhÆ° ngọc lăn bàn thạch, sáng sủa nhÆ° gÆ°Æ¡ng chiếu trên đài. Ðạt đến chá»— đó thì Ä‘i cÅ©ng vậy mà đứng cÅ©ng vậy, ngồi cÅ©ng vậy mà nằm cÅ©ng vậy, nói cÅ©ng vậy mà lặng thinh cÅ©ng vậy, không lúc nào mà không ở trong trạng thái thiền. NhÆ° vậy má»›i giải phẩu tam cú, tam huyền, tam yếu, ngÅ© vị, tìm hiểu tứ liệu giản, tứ tân chủ, tứ chiếu dụng và những Ä‘iểm thiết yếu khác của các vị thiền tổ(74)". 

Pháp Loa có làm nhiều bài thÆ¡ và kệ tụng. NhÆ°ng tất cả bài kệ tụng của ông viết trong Thạch Thất Mị Ngữ Niêm Tụng đã mất theo tác phẩm. Chỉ còn lại ba bài thÆ¡: Má»™t bài ca tụng Tuệ Trung thượng sÄ© còn tìm thấy ở Tuệ Trung Thượng SÄ© Ngữ Lục, má»™t bài Thị Tịch còn ghi chép ở sách Tam Tổ Thá»±c Lục và bài " LÆ°u Luyến Cảnh Núi Xanh" còn được chép ở trong Toàn Việt Thi Lục. Bài ca tụng Tuệ Trung của Pháp Loa có thể gọi là ngắn gọn và hay nhất trong những bài khác cùng ca ngợi Tuệ Trung mà ta thấy ở Tuệ Trung Thượng SÄ© Ngữ Lục - Bài ấy nhÆ° sau: 

A!

Gang ròng nhồi lại

Sắt ống đúc thành

Thước trời đất

Gió mát trăng thanh

A!

Bài thÆ¡ LÆ°u Luyến Cảnh Thanh SÆ¡n nhÆ° sau: 

Dòng thu gầy hun hút

Núi cáo soi nước trong

Ngững đầu nhìn bất tận

Ðường trước nối muôn từng.

Bài kệ Thị Tịch ông viết trÆ°á»›c khi qua đời hồi năm 47 tuổi: 

Vạn giây cắt đứt tấm thân nhàn

Hơn bốn mươi năm mộng đã tàn

Giã biệt! Xin đừng theo hỏi nữa

Bên kia trăng gió rộng thênh thang.
 
 

(Vạn duyên tài đoạn nhất thân nhàn

Tứ thập niên dư mộng huyễn gian

Trân trọng! chư nhân hưu tá vấn

Ná biên phong nguyệt cánh man khoan).
 
 

Vua Minh Tông nghe Pháp Loa đã tịch, liền ban hiệu cho ông là Tịnh Trí Tôn Giả. Ðời ông là đời má»™t vị chân tu đầy hoạt Ä‘á»™ng. Lúc sanh thời ông có bài văn phát nguyện, mà toàn văn không còn, trừ ra má»™t vài câu còn trích lại trong Tam Tổ Thá»±c Lục. Trong bài văn kia ông nói " ChÆ° Phật và chÆ° Bồ tát có những hạnh nguyện nào, tôi đều thiết tha xin học và làm theo. Dù chúng sinh có khen chê khinh trọng, dù bố thí hay xâm Ä‘oạt, thì khi mắt thấy tai nghe cÅ©ng đều xin cứu Ä‘á»™ khiến cho tất cả đều lên được nấc thang giác ngá»™..."  

Pháp Loabị bệnh tại An Lạc Tàng Viện do thiền sÆ° Kiên Ðức trú trì. NÆ¡i đây ông đã từng giảng kinh Hoa Nghiêm nhiều lần. Sau đó ông được trở về chùa Quỳnh Lâm. Vua Minh Tông có ngá»± giá đến đây để thăm ông khi ông lâm bệnh và có sai ngá»± y chẩn mạch hốt thuốc cho ông. Sau khi ông mất, Minh Tông ngá»± bút ban ông hiệu Tịnh Trí Tôn Giả và có làm thÆ¡ sau đây để tán dÆ°Æ¡ng ông: 

Tay duỗi trần hoàn rũ sạch duyên

Giác hoàng sự nghiệp đã nên truyền

Chân mộ núi xanh mờ cỏ dại

Xác ve cây biếc tỏa sương mềm

Giảng đường dọi bóng trăng kim cổ

Thiền thất mờ sương khói nhị biên

Tiếc duyên kim cải ngày xưa đó

Chuốt một bài thơ khóc bạn thiền.
 
 

(Thùy thủ trần hoàn dĩ liễu duyên

Giác hoàng kim lũ đắc nhân truyền

Thanh sơn mạn thảo quan tàng lý

Bích thọ thâm sương xác thuế thiền

Dạ yểm giảng đường kim cổ nguyệt

Hiểu mê trượng thất hữu vô yên

Tương đầu châm giới ta phi tích

Trác tựu ai chương thế lệ huyền).
 
 

Sách Toàn Việt Thi Lục của Lê Quý Ðôn chép bài này của vua Anh Tông. Kỳ thực Anh Tông chết trước Pháp Loa. các sách Tam Tổ Thực Lục và Thánh Tông Ðăng Lục đều chép rằng tác giả bài Văn Pháp Loa Tôn Giả Ðề Thanh Mai Tự là của vua Minh Tông.



(73) Trạo cử là trạng thái lay động, hôn trầm là trạng thái mê muội
(74) Ðây là những nguyên tắc thiền đạo của phái Lâm Tế, do Lâm Tế thiền sư sáng tạo.
---o0o---