|
CHƯƠNG I TRUNG TÂM PHẬT GIÁO LUY LÂU
Ðạo
Phật truyền vào Việt Nam khoảng đầu kỷ kỷ nguyên Tây
lịch. Tài liệu chắc chắn cho biết rằng vào hạ bán thế
kỷ thứ hai, tại nước ta đã có một trung tâm Phật Giáo
phồn vinh và quan trọng rồi, nhưng có thể đạo Phật đã
du nhập vào nước ta trong thế kỷ đầu của kỷ nguyên.
Các
tài liệu như Hậu Hán Thư trong đó có câu chuyện Sở
Vương Anh theo Phật Giáo, sách Lý Hoặc Luận của
Mâu tử viết tại Việt Nam vào hạ bán thế kỷ thứ
hai, kinh Tứ Thập Nhị Chương và một số tài liệu
khác, có tính cách lặt vặt hơn, cho ta thấy rằng trong đời
Hậu Hán (thế kỷ thứ nhất và thứ hai) ngoài hai trung tâm
Phật Giáo ở Trung Hoa, còn có một trung tâm Phật Giáo rất
quan trong khác ở Giao Chỉ, tưc Việt Nam, lúc bấy giờ đang
nội thuộc Trung Quốc.
Hai
trung tâm ở Trung Hoa là trung tâm Lạc Dương và trung
tâm Bành Thành. Lạc Dương là kinh đô Trung Hoa vào đời
nhà Hán, Hiện nay là một huyeetnj ở tỉnh Hà Nam, còn Bành
Thành thì ở về hạ lưu sông Dương Tử, hiện thuộc tỉnh
Giang Tô. Ở nước ta thì có trung tâm Luy Lâu: Luy Lâu
là trị sở bấy giờ của Giao Chỉ, hiện nay thuộc phủ Thuận
Thành, tỉnh Bắc Ninh.
Trong
ba trung tâm Phật Giáo đời Hán vừa kể, trung tâm nào được
thành lập sớm nhất? Hiện giời chưa có câu trả lời dứt
khoát. Nhưng đứng về nguồn gốc, chỉ có trung tâm Luy
Lâu tại Giao Chỉ là ta biết chắc chắn do đau mà được
thành lập. Nguồn gốc của hai trung tâm Lạc Dương và
Bành Thành vẫn còn rất mờ. Có nhiều dữ kiện khiến
cho chúng ta nghĩ trung tâm Luy Lâu được thành lập sớm
nhất, và trung tâm này đã làm bàn đạp cho sự thành lập
các trung tâm Bành Thành và Lạc Dương ở Trung
Hoa.
Trung
tâm Luy Lâu được hình thành do sự viếng thăm của những
tăng sĩ Ấn Ðộ. Các vị tăng sĩ này tới viếng Việt Nam
bằng đường biển, theo các thuyền buôn người Ấn. Nhưng
trước khi các vị tăng sĩ Ấn Ðộ tới Việt Nam, các thương
gia Ấn Ðộ cũng đã tới Việt Nam rồi và cũng đã mang theo
sinh hoạt Phật Giáo tới xứ ta.
Hồi
bấy giờ (đầu kỷ nguyên) Ấn Ðộ đã có liên hệ th ưong
mai trực tiếp với Trung Ðông và gián tiếp với các nước
vùng Ðịa Trung Hải, Ðế quốc La Mã tiêu thụ rất nhiều
vàng, lụa, hương liệu, trầm, quế, tiêu, ngà voi, châu báu...
Ðể có đủ hàng cung cấp cho thị trường ấy, các thương
gia Ấn Ðộ đã dong thuyền đi mãi vè Viễn Ðông. Những thương
thuyền này theo gió mùa Tây nam đi về Ðông Nam Á, tời bờ
biển Mã Lai, Phù Nam và Giao Chỉ. Thương gia Ấn Ðộ phải
ở lại đây cho đến năm tới, chờ cho gió mà Ðông bắc
để trở về Ấn Ðộ. Trong thời gian này, họ lại sống
với dân bản xứ à đã ảnh hưởng tới dân bản xứ bằng
lối sống văn minh của họ. Vì sự có mặt của những thương
gia Ấn Ðộ mà dân ta hồi đó đã biết đến ít nhiều về
kỹ thuật canh tác, y thuật và tôn giáo Ấn Ðộ. Ta có thể
nói rằng chính những thương gia Ấn Ðộ đã trước tiên
đem Phật giáo vào nước ta.
Những
thương gia kia, tuy vậy, không phải là những nhà truyền giáo,
và mục đích của họ khi đến xứ ta là để buôn bán chứ
không phải là để truyền đạo. Trong thời gian lưu lại Giao
Chỉ, họ thờ Phật, đốt trầm, đọc kinh và cúng dường
những pháp Phật nho nhỏ mà họ mang theo. Người Giao Chỉ
ta đã áp dụng những điều hay về canh nông và về y thuật
do họ chỉ bày, cố nhiên là cũng tỏ ra mến chuộng tôn giáo
của họ. Nhưng nếu hồi đó có những người Giao Chỉ theo
đạo Phật thì đạo Phật đây cũng mới chỉ là những sinh
hoạt tín ngưỡng đơn sơ của người cư sĩ, giới hạn trong
sự tụng đọc tam quy, cúng dường Phật tháp và bố thí cho
người ốm đau đói khổ mà thôi, chứ chưa có sự học hỏi
kinh điển và chế độ tăng sĩ.
Trong
các chuyến đi xa hàng năm với nhiều tháng lênh đênh trên
biển cả như thế, các thương gia Ấn cũng th ờ cúng và cầu
nguyện đức Phật và các vị Bồ Tát hộ trì cho trời yên
biển lặng và mọi sự yên lành. Các thương thuyền này thường
thờ đức Quán Thế Âm (Avalokitesvara) và đức Nhiên Ðăng
(Dipankara), được nổi tiếng là những vị che chở cho thủy
thủ được an lành ngoài biển khơi.
Cũng
trong mục đích cầu nguyện và cúng dường tam bảo, họ thỉnh
theo thương thuyền một vị tăng sĩ. Chính những vị tăng
sĩ đi theo thương thuyền này sẽ lập nên trung tâm Phật giáo
Luy Lâu tại Giao Chỉ.
Tuy
nhiên, những vị tăng sĩ đi theo các thương thuyền Ấn Ðộ
không phải chỉ mục đích giảng đạo và cầu nguyện cho
các Phật tử trong thương thuyền. Vào cuối thế kỷ thứ
nhất trước Tây lịch, khuynh hướng Phật Giáo đại thừa
đã nẩy nở tại Ấn Ðộ, và vào đầu th ế kỷ thứ nhất
của kỷ nguyên Tây lịch, các trung tâm Amaravati và Nagarjunakonda
ở miền duyên hải Ðông nam Ấn Ðộ dần dần trở nên những
trung tâm Phật giáo truyền báo vào các nước xa là một trong
những hoa trái của đạo Phật đại thừa; chính ý hướng
này đã thúc đẩy những vị tăng sĩ đi theo vơi các thương
thuyền về Ðông Nam Á. Trung tâm Phật Giáo Luy Lâu được
thiết lập do sự viếng thăm của thương gia và tăng sĩ Ấn
Ðộ tới bằng đường biển, đó là một điều tất cả
các học giả đều phải đồng ý. Ðạo Phật tại Giao Châu
do từ Ấn Ðộ truyền sang trực tiếp, không phải là từ
Trung Hoa truyền xuống.
Giao
Chỉ tuy nội thuộc nhà Hán nhưng vì ở quá xa và vì phong
tục văn hóa khác biệt với đời sống người Hán nên thư
tịch Trung Hoa, trong đó kể cả Hậu Hán Thư, hầu như
không hề để cập đến. Tác phẩm Phật giáo đầu tiên viết
bằng Hán tự, trong khi đó, lại được viết tại Giao Chỉ,
đó là cuốn Lý Hoặc Luận[1]
của Mâu Tử, một người Trung Hoa trước theo Lão Giáo, sau
nhập tịch Giao Chỉ, theo học đạo Phật ở đây và trở
nên một Phật tử rất thuần thành. Nhiều người, trong đó
có ông Trần Văn Giáp, tác giả cuốn Le Bouddhisme En Annam
Des Origines Au XIIè Sièle, căn cứ vào sự kiện đó nói
rằng vì tài liệu sớm nhất ta hiện có về đạo Phật tại
Giao Chỉ vào cuối thế kỷ thứ hai, ta chỉ có thể nói là
đạo Phật được truyền vào nước ta trễ lắm là trong thế
kỷ ấy.
Ở
đây, dù thiếu tài liệu trực tiếp về đạo Phật Giao Chỉ,
chúng tôi cũng muốn dùng những tài liệu liên hệ tới các
trung tâm Phật Giáo Hậu Hán để chứng minh rằng trung tâm
Luy Lâu được thành lập sớm hơn các trung tâm Lạc Dương
và Bành Thành, và như thế là đã được hình thành vào thượng
bán thế kỷ thứ nhất của Tây lịch.
Ðạo
Phật truyền qua Trung Hoa bằng hai đường: đường bộ từ
Trung Á, và đường thủy ngang qua biển Nam Hải. Theo Thang Dụng
Hình, tác giả Hán Ngụy Lưỡng Tấn Nam Bắc Triều Phật
Giáo Sử[2],
đạo Phật Trung Hoa phần lớn được truyền sang bằng đường
bộ. Ông Thang nhấn mạnh nhiều lần về điểm này, tuy nhiên
ông không đưa ra những bằng chøng cụ thể. Nhiều người
có khuynh hướng cho rằng trung tâm Lạc Dương được thiết
lập do những tăng sĩ Phật Giáo Ấn Ðộ và Trung Á tới bằng
đường bộ: nhìn trên bản đồ ta thấy đường bộ gần
hơn đường thủy, và đọc sách xưa ta đã bị ảnh hưởng
gián tiếp của câu chuyện giấc mộng vua Hán Minh Ðế[3].
Sự thực là tuy con đường bộ nối liền Ấn Ðộ và Trung
Hoa có đóng một vai trò quan trọng trong lịch sử truyền bá
Phật Giáo vào Trung Hoa, nhưng những vị tăng sĩ đầu tiên
tời Trung Hoa hầu h ết đều do đường biển mà tới. Lý
do giản dị nhất là hồi đó tuy con đường thủy có thể
dài hơn nhưng tương đối an ninh và dễ dàng hơn con đường
núi non và sa mạc rất nhiều.
Con
đường bộ trở nên tương đối dễ dàng bắt đầu từ thế
kỷ thứ tư. Tuy vậy Pháp Hiển (cuối thế kỷ thứ tư) và
Huyền Trang (thế kỷ thứ bảy) vẫn còn phải trải qua bao
khổ nhọc mới đi trọn con đường ấy. Nhiều vị tăng sĩ
ở các nước Trung Á đã sang Việt Nam rồi đên Trung Hoa bằng
đường thủy, trong khi đó thì những nước Trung Á ấy lại
nằm giữa Ấn Ðộ và Trung Hoa.
Lạc
Dương là kinh đô của nhà Hán. Tục truyền rằng vua Hán Minh
Ðế (58 - 75 T.L) một đêm nằm mộng thấy một người vàng
bay trước điện. Vua hoan hỷ ngắm nhìn, sáng mai thức dậy
liền hỏi quần thần "đó là vị thần nào vậy?" Có một
vị cận thần tên Truyền Nghị tâu "Thần nghe ở nước Thiên
Trúc có người đắc đạo, gọi là Phật, có thể phi
hành trên hư không, thân thể có hào quang. Chắc là vị thần
ấy đấy". Vua liền cử một phái đoàn đi sang nước Ðại
Nhục Chi (Scythia). Phái đoàn thỉnh được kinh Tứ Thập
Nhị Chương đem về.
Câu
truyện trên kia được ghi chép đầu tiên trong Lý Hoặc
Luận của Mâu Tử, trong Lão Tử Hóa Hồ Kinh và trong
bài tựa kinh Tứ Thấp Nhị Chương; và trong suốt mười
mấy thế kỷ đã được xem như là câu chuyện thực vè sự
du nhập của Phật Giáo và đất Hán.
Có
quá nhiều nghi vấn được đặt ra về câu chuyện trên khiến
cho câu chuyện đã mất hết giá trị lịch sử. Trước hết,
nếu Truyền Nghị có thể giải thích được giấc mộng "người
vàng" là Phật, thì đó có nghĩa là ông ta đã nghe nói đến
Phật giáo đã được du nhập trước khi vua Hán nằm mộng.
Thứ đến, dữ kiện về năm đi năm về của phái đoàn và
về tên tuổi các nhân viên của phái đoàn cũng bất nhất.
Có bản chép Trương Khiên là một trong những nhân viên
của phái đoàn, trong khi Trương Khiên là nhân vật sống vào
thế kỷ thứ hai trước Tây lịch. Các bản xưa nhất
không chép có vị tăng Ấn Ðộ nào về theo phái đoàn, trong
khi các bản in thế kỷ thứ năm nói có một vị, và một
tác phẩm thế kỷ thứ sáu lại nói có hai vị tăng Ấn Ðộ.
Cuối
cùng, người ta nghĩ khó mà tin rằng chỉ vì một giấc mộng
mà một phái đoàn quan trọng thế kia đã được gửi đi một
chuyến hành trình quá gian khổ như thế. Truyền thuyết giấc
mộng Hán Minh Ðế vì vậy không có căn bản vững chắc. Ông
Henri Maspéro năm 1910 đã đem nhiều chứng liệu để chứng
minh rằng chuyện Giấc Mộng Hán Minh Ðế chỉ là một
sự "ăn gian vì đạo" (fraude pieuse) bịa đặt vào hạu bán
thế kỷ thứ hai (Le Songe Et l’Ambassade De l’Empereur Ming,
étude critique des sources - BEFEO, X).
Nhưng
tại sao người ta lại bịa đặt ra câu chuyện giấc mộng?
Rất có stheer vì trong đời nhà Hán, ngoài trung tâm Phật Giáo
Lạc Dương còn có trung tâm Bành Thành và trung
tâm Luy Lâu. Những người theo Phật Giáo ở kinh đô
Lạc Dương trong khoảng giữa thế kỷ thứ hai có thể đã
tạo dựng nên câu chuyện kia để chứng tỏ rằng Phật Giáo
Lạc Dương có sớm nhất, trong mục đích tạo uy tín cho trung
tâm này. Nếu câu chuyện thấy có chép trong tác phẩm Lý
Hoặc Luận, chắc chắn đó là một sự thêm thắt sau này.
Mâu Tử học Phật ở Luy Lâu, không phải ở Lạc Dương; ông
có thể chưa bao giờ nghe nói đến một nơi nào có Phật Giáo
ngoại trừ Giao Châu cả, và câu chuyện giấc mộng chắc đã
được thêm vào tác phẩm sớm nhất là vào giữa thế kỷ
thứ ba. Trong Lý Hoặc Luận, ta có thể tìm ra một số
từ ngữ và cách hành văn có mầu sắc thế kỷ thứ ba và
thứ năm; những yếu tố này cho ta biết một vài điều sửa
chữa và thêm thắt đã xảy ra cho tác phẩm trong các thé kỷ
đó.
Tuy
nhiên, trung tâm Phật Giáo Lạc Dương là một trung tâm quan
trọng vào hạ bán thế kỷ thứ hai. Vua Hoàn Ðế (tức
vị năm 165) đã thờ Phật trong cung cùng với Lão Tử (trong
lá sớ của Tương Giai dâng vua Hoàn Ðế năm 166. Hậu
Hán Thư chép); như vậy ta biết ảnh hưởng của Phật
Giáo lúc này đã khá mạnh. Thời đó, tại Lạc Dương có
các vị tăng sĩ ngoại quốc cộng tác với người Hán phiên
dịch kinh sách từ Phạn Ngữ ra Hán tự. An Thế Cao một
vị tăng sĩ người An Tức (Parthia) cùng với một vị khác
người đồng hương tên la An Huyền cùng dịch kinh với một
Hán tên Nghiên Phù Ðiều.
Hai
ngôi chùa nổi tiếng của thời đại là chùa Bạch Mã và
chùa Hứa Xương. Chính cái tên của ngôi chùa Hứa Xương
này đã cho ta một vài dữ kiện về nguồn gốc sự thành
lập trung tâm Lạc Dương.
Hứa
Xương là tên một ngôi chùa cổ nhất của trung tâm Lạc Dương,
nhưng cũng là tên của một người em họ của Sở Vương
Anh. Sở Vương Anh là em cùng cha khác mẹ với vua Hán Minh
Ðế, được phong tước Vương năm 41. Năm 52, Sở Vương Anh
di cư ra Bành Thành, kinh đô của nước Sở. Hậu Hán Thư
có chép câu chuyện sau đây: Năm 65, vua Minh Ðế xuống chiếu
cho phép những người nào bị tội nặng được dâng vóc lụa
để chuộc tội. Sở Vương Anh có mặc cảm mình cũng có tội,
nên dang lên vua Minh Ðế ba mươi tấm lụa. Vua Minh Ðế xuống
chiếu nói rằng Vương không có tội gì, trái lại, Vương
còn có công đức "biết sùng thượng giáo lý cao siêu của
Hoàng Lão và đức nhân từ bao la của Phật" (Thượng Hoàng
Lão chi vi ngôn, thượng Phù Ðồ chi nhân từ). Vương bèn
làm lễ sám hối, ăn chay ba tháng và tổ chức thịnh soạn
cúng dường tăng sĩ và cư sĩ. Như thế rõ ràng là trung tâm
Bành Thành được thành lập sớm hơn trung tâm Lạc Dương;
chính ở đây vào năm 65 đã có một đoàn thể Phật Giáo
vừa tăng già và cư sĩ. Tăng già đây chắc chắn là những
vị tăng già ngoại quốc, bởi lẽ người Trung Hoa trong đời
Hán chưa được phép xuất gia. Cao Tăng Truyện trích
lời sớ của Vương Ðộ đời Tấn: "Từ khi Phật Giáo được
du nhập chỉ nghe nói đến các sư Tây Vực được phép lập
chùa thờ Phật, người Hán không được phép xuất gia. Nhà
Ngụy theo pháp chế của nhà Hán cũng chưa cho dân bản xứ
xuất gia". Ông Thang Dụng Hình: Trong sách Hán Ngụy Lưỡng
Tấn Nam Bắc Triều Phật Giáo Sử nêu lên thuyết là vào
đời Hán đã có người Hán xuất gia rồi. Và có lẽ những
người xuất gia này chỉ thọ Nguyễn giới của Ưu Bà Tắc
thôi. Ðiều này không đứng vững, bởi vì như thế thì câu
chuyện cần già phải phân biệt xuất gia và tại gia trong
câu nói "đặt tiệc thịnh soạn cúng dường tăng sĩ và cư
sĩ". Ông Thang Dụng Hình còn đưa ra chứng cớ Nghiêm Phù Ðiều,
người Phật tử cộng tác với An Thế Cao dịch kinh tại Lạc
Dương, là một người Hán xuất gia. Nhưng không có tài liệu
gì chứng chắc Nghiêm Phù Ðiều cũng không có vẻ là tên
của một người xuất gia.
Trở
lại chùa Hứa Xương. Sở Vương Anh mất năm 71, đã biến
một ngôi nhà của Hứa Xương Tự và đã ảnh hưởng sâu
xa tới tín ngưỡng của Hán Hoàn Ðế.
Liên
hệ tới trung tâm Bành Thành, ngoài câu chuyện Sở Vương Anh
theo Phật, còn có câu chuyện Sạ Dung làm chùa. Theo sách
Ngô Chí, Sạ Dung người Ðơn Dương, làm quan phụ trách
vận tải lương thực miền hạ lưu sông Dương Tử, Sa Dung
làm cách mệnh giữ lấy lương thực, quyền bính một phương.
Ông chùa o nấu thức ăn bầy ra đường dài tới mười dặm
để cho người đói tới ăn. Sau đó ông ta cất một ngôi
chùa lớn, trong đó có thờ tượng Phật thếp vàng; lại xây
một cái lầu có thể chứa tới tới 3.000 người. Ông ta tổ
chức tụng kinh, thuyết pháp, làm lễ cúng Phật. Sạ Dung mất
năm Hưng Bình thứ hai đời Hán Hiến Ðế (195). Sách Thủy
Kinh Chú cũng cho biết trước khi Sạ Dung làm chùa vài năm,
có một gia đình theo đạo Phật gần đó đã xây một cây
tháp cao để thờ một người trong gia đình vừa mất. Các
câu chuyện trên đều xác nhận thêm rằng Bành Thành vào hạ
bán thế kỷ thứ hai là một trung tâm Phật Giáo quan trọng.
Không có sử liệu nào nói về nguồn gốc của trung tâm Phật
Giáo Bành Thành. Trung tâm này, như ta đã thấy, đã là nguồn
gốc của trung tâm Lạc Dương thì không thẻ nào do từ trung
tâm Lạc Dương mà được thành lập. Ta cũng phải loại gỉ
thuyết cho rằng đạo Phật truyền vào miền hạ lưu sông
Dương Tử bằng đường bộ. Chỉ còn có thẻ nói Phật Giáo
được truyền vào Bành Thành bằng đường biển. Lương Khải
Siêu cũng quả quyết như vậy. Nếu đã do hải đạo thì đạo
Phật chắc chắn phải đi qua Giao Chỉ trước, bởi vì Giao
Chỉ là một điểm giao tiếp quan trọng giữa Trung Hoa va thế
giới bên ngoài. Sự có mặt của trung tâm Luy Lâu trong thời
Hán đã là một sự thực hiển nhiên, thì trung tâm Luy Lâu
làm căn cứ là bàn đạp cho Phật giáo đi vào đất Hán là
một chuyện dĩ nhiên vậy. Ta không thể tưởng tượng rằng
trong đầu thế kỷ thứ nhất, các vị du tăng Ấn Ðộ đổ
bộ lên Quảng Châu và đi thẳng lên miền hạ lưu sông Dương
Tử trong khi họ chưa biết Hán ngữ và trong khi đất Hán chưa
có một cơ sở và một dấu tích gì về đạo Phật để móc
nối. Các vị tăng sĩ theo thương thuyền, dù đổ bộ lên
đất Phù Nam, Chân Lạp, Nhật Nam, Cửu Chân, Giao Chỉ hay Quảng
Châu hẳn cũng phải dừng chân quy tụ tại địa điểm giao
tiếp Giao Chỉ, rất thuận lợi cho họ về mọi mặt. Giao
Chỉ sát các nước chịu ảnh hưởng văn minh Ấn Ðộ như
Phù Nam, Chân Lạp, Chiêm Ba (Chàm), những nước có sử dụng
Phạn ngữ. Văn hóa Giao Chỉ tuy khác với văn hóa này hơn
cả và ở đây Hán tự đã được dùng. Vậy Giao Chỉ là
đất duy nhất ở đó có thể tìm người thông dịch dễ dàng.
Giao Chỉ thuận lợi vè mặt địa dư và ngôn ngữ. Sau khi
có thời gian nghỉ ngơi, học tập sinh ngữ, thăm hỏi tình
hình chính trị và địa thế, các vị du tăng Ấn Ðộ mới
nghĩ đến chuyện vượt hàng tháng miền núi đi lên miền
Bắc. Chính do vai trò địa lý và văn hóa đó của Giao Chỉ
mà trung tâm Phật Giáo Luy Lâu được thành lập và thành lập
vào tiền bán thế kỷ thứ nhất, bởi đến năm 65 ta thấy
dấu tích Phật giáo ở Bành Thành rồi (Sở Vương Anh mộ
Phật) một vài học giả cho rằng chữ Giao, trong Giao
Chỉ vốn là chữ Giao trong Giao Long, nhưng theo chúng tôi, chứ
Giao đây có nghĩa là mô giới giao tiếp - giao tiếp giữa lục
địa Hán và nước ngoài. Vai trò địa lý này hiện vẫn còn
như xưa. Việt Nam vẫn là cửa ngõ đi vào lục địa Trung
Hoa, và danh từ Indo- Chine dùng để chỉ cho bán đảo
đông Dương cũng mang cùng một ngụ ý giao tiếp như vậy.
Ta có thể kết luận rằng trung tâm Bành Thành được thành
lập do sự viếng của các tăng sĩ phát xuất từ trung tâm
Luy Lâu.
Nhà
học giả Trung Hoa Hồ Thích (Hồ Thích Luận Học Cận Trước,
Thượng Hỉa, 1935) nói rằng hồi đó đã có những đường
liên lạc giữa trung tâm Luy Lâu và trung tâm Bành Thành. Ông
cho rằng đã có những vị tăng sĩ khởi hành từ Giao Châu
đến Vũ Châu (ở Quảng Tây) rồi từ Quảng Tây đến Quảng
Ðông, và từ Quảng đông vượt qua núi non đi tới miền hạ
lưu lưu châu thổ sông Dương Tử. Hậu Hán Thư cũng
có nói đến những chuyến đi từ Giao Châu đến miền hạ
lưu sông Dương Tử bằng đường biển. Hậu Hán Thư
ghi chép: Quận Nhật Nam đem phẩm vật cống hiến Hán Ðế
bằng đường biển. Khương Tăng Hội là một vị tu sĩ dòng
dõi người Khương Cư (Sogdiane), sinh trưởng trên đất Giao
Châu đến hạ lưu sông Dương tử để truyền đạo. Ngoài
lý do trên còn có những chứng cớ sau đây giúp kết luận
rằng trung tâm Luy Lâu vào đời Ðông Hán là mọt căn cứ
Phật giáo quan trọng, từ đó Phật giáo đã được truyền
vào đất Hán:
1.
Trong ba trung tâm Phật Giáo đời Hán, trung tâm Luy Lâu là trung
tâm có tổ chức tăng đoàn sớm nhất. Trong sách Lý Hoặc
Luận viết về những tệ trạng của giới tăng sĩ Giao
Châu vào hạ bán thế kỷ thứ hai, Mâu Tử nói: "Sa môn ngày
nay có kẻ lại thích uống rượu ngon, có khi có vợ con, biết
cất giữ tiền bạc, của quý, lại chuyên môn lừa dối".
Như vậy ta biết rằng tăng đoàn Giao Châu thời đó đã khá
đông đảo mời có nhiều tệ đoan như vậy. Danh từ "Sa
môn ngày nay" mà Mâu Tử dùng không thể để chỉ một
số ít tăng sĩ Ấn Ðộ có mặt tại Giao Châu, mà là chỉ
số đông tăng sĩ Giao Châu vậy.
2.
Ở Trung Hoa, mãi đến năm thứ hai niên hiệu Gia Bình (năm
250) mới có Ðàm Ma Ca La từ Trung Ấn qua thực hành pháp "thập
nhân thọ" để làm lễ trao giới xuất gia cho người muốn
làm Sa môn. Theo phép này, lễ xuất gia truyền giới phải do
một hội đồng mười vị tăng sĩ chủ tọa mới được hợp
pháp. Trong mười vị đó, có ba vị thầy (Tam sư: hòa
thượng, yết ma và giáo thụ) và bảy vị Tôn chứng chứng
minh.Ở Giao Châu phép "thập nhân thọ" này đã được áp dụng
chậm nhát là vào hạ bán thế kỷ thứ hai. Ta thấy Khương
Tăng Hội (sinh trưởng tại Giao Châu, cha mẹ mất lúc mười
tuổi, đã đi xuất gia tại Giao Châu khoảng mười năm sau
đó) viết trong bài tựa kinh An Bang Thủ Ý, có than thở
rằng tam sư của mình đã viên tịch qúa sớm: "Tôi sinh
ra như dấu tích cuối cùng, vừa mới đủ sức vác củi thì
mẹ cha đều mất, bậc tam sư cũng viên tịch, nhìn lên mây
trời, buồn thấy mình thiếu người chỉ dạy..."Trong số
mười vị truyền giáo cho Khương Tăng Hội ta không biết có
vị nào là tăng sĩ ngọai quốc không. Ta cũng không thể nói
tất cả mười vị kia đều là tăng sĩ ngoại quốc được.
Khương Tăng Hội tuy là dòng dõi người Khương Cư, nhưng theo
Lương Cao Tăng Truyện, thì cha mẹ ông đã sang cư trú
tại Giao Châu làm nghề buôn bán, và khi ông lên mười tuổi
thì cha mẹ đều mất. Sinh trưởng tại Giao Châu, cố nhiên
ông nói tiếng Giao Châu: xuất gia học Phật tại Giao Châu
và có khả năng dịch thuật kinh Phạn ra kinh Hán, ông chắc
chắn đã học Phạn ngữ và Hán ngữ tại Giao Châu. Cao
Tăng Truyện (viết vào khoảng 520 sau Tây lịch) cho rằng
Tăng Hội là vị tăng sĩ đầu tiên xuất hiện sớm nhất
ở Giang Nam, và trước đó tại đất này chỉ có một vị
cứ sĩ tên là Chi Khiêm người nước Nhục Chi từ phương
Bắc chạy loạn xuống.
3.
Tập luận thuyết đầu tiên về đạo Phật bằng Hán tự
đã được viết tại Giao Châu. Tác giả như ta đã biết,là
Mâu Tử, sinh vào khoảng 165 - 170.
Người
Phật tử này đã học Phật tại Giao Châu và viết cuốn sách
kia để đáp lại những kích bác về Phật tử của những
người không theo đạo Phật, nhất là những người theo Khổng
Lão từ đất hán chạy qua tị nạn Tam Quốc. Bài tựa sách
Lý Hoặc Luận nói: "Sau khi Hán Linh Ðế mất[4]
trong nước rối loạn, chỉ có đất Giao Châu tạm yên, những
bậc dị nhân Bắc phương đều đến ở lại đây, nhiều
người theo thuật tịch cốc trường sinh của thần tiên. Thời
ấy có nhiều học giả. Mâu Tử thường đem Ngũ Kinh ra vấn
nạn, nhiều đạo gia và thuật sĩ không làm sao đối đáp
lại được". Mâu Tử học Phật ở Giao Châu, chắc chắn không
phải với những nhân sĩ theo đạo tịch cốc trường sinh,
mà là với những tăng sĩ Ấn Ðộ có mặt tại Giao Châu thời
và với những tăng sĩ người Giao Châu. Không biết Mâu Tử
có góp phần vào công việc dịch thuật kinh sách Phạn ngữ
ra Hán ngữ đầu tiên về Phật Giáo không? Có lẽ Mâu Tử
đã phải học tiếng Phạn để nghiên cứu Phật Giáo. Cũng
có thể có một số ít người theo gương Mâu Tử theo đạo
Phật và góp công vào việc dịch thuật kinh điển. Xét về
hình thức cũng như nội dung kinh TưThập Nhị Chương, ta
có thể nói rằng kinh này được trích dịch lại từ nhiều
kinh điển, và xuất hiện tại Giao Châu trong thế kỷ thứ
hai Tây lịch, chứ không phải do phái đoàn Hán Minh Ðế mang
từ nước Nhục Chi về.
4.
Sách Ngô Chí có chép một lá thư của Viên Huy nhà
Hán gửi từ Giao Châu cho thượng thư lệnh là Tuân Húc
năm 207, trong đó có một đoạn như sau: "Sĩ Nhiếp ở Giao
Châu đã học vấn sâu rộng lại giỏi chính trị, nên trong
buổi đại loạn vẫn được một quận yên ổn hơn 20 năm,
bờ cõi không việc gì, dân vẫn yên nghiệp. Anh em đều làm
quan coi quận, hùng tướng một châu, ở lánh xa muôn dặm,
uy tín không ai hơn. Khi ra vào thì đánh chuông khánh, uy nghi
đủ hết: kèn sáo thổi vang, xe ngựa đầy đường; người
Hồ đi sát bánh xe đốt hương thường có đến mấy mươi
người...". Danh từ Hồ ở đây chỉ cho người Ấn Ðộ. Ðây
cũng là một chứng cớ về tính chất Ấn Ðộ của đạo
Phật Giao Châu ở trong hạ bán thế kỷ thứ hai.
5.
Vào thời Mâu Tử và Khương Tăng Hội (cuối thế kỷ thứ
hai đầu thế kỷ thứ ba) ở Giao Châu đã có lưu hành ít
nhất là mười lăm bộ kinh rồi, và số tăng sĩ tại Giao
Châu đã có khoảng năm trăm vị. Tài liệu này được chép
trong cuốn Thiền Uyển Tập Anh Ngữ Lục, một
tác phẩm hoàn thành đầu đời Trần, nói về ba phái Thiền
tông Việt Nam trước đó. Sau đây là đoạn văn hiên hệ tới
tiểu sử thiền sư Thông Biện, tuy hơi dài nhưng là tài liệu
quan trọng nhất của Việt Nam về lịch sử du nhập của Phật
Giáo vào Giao Châu.
"Ngày
rằm tháng Hai năm Hội Phong thứ năm (1906), hoàng thái hậu
Phù Cảm Linh N hân thiết lễ trai tăng và cùng các bậc kỳ
túc cứu vấn về nghĩa Phật và Tổ {...} Bà hỏi: "Phật ở
phương nào? Tổ ở nước nào? Ai hơn ai kém? Ðến nước ta
hồi nào để truyền đạo? Ai đến trước ai đến sau? Người
nào dạy niệm danh hiệu Phật, người nào dạy đạt tâm ý
Tổ?" Trong khi mọi người còn đang yên lặng thì thiền sư
Trí Không trả lời: "Phật là bậc thường trú thế gian, bất
sinh bất diệt; Tổ là người đạt đến tông chỉ của Phật
Tâm và tới trình độ kiến giải và thực hành đi đôi với
nhau. Phật và Tổ là một. Chỉ có kẻ kém học mới vọng
nghĩ giữa Tổ và Phật có hơn có kém. Vả lại, Phật là
giác ngộ. Sự giác ngộ này vốn trạm nhiên thường trú -
tất cả mọi sinh linh đều có bản tính giác ngộ, chỉ vì
bụi vọng tình che lấp, trôi theo nghiệp báo mà lưu lạc mà
lưu lạc mãi trong vòng ngũ thú. Vì tâm từ bi nên Phật thị
hiện giáng sinh ở Tây Trúc vốn là xứ trung ương vậy. Năm
mười chín tuổi xuất gia, năm ba mươi tuổi thành đạo. Thuyết
pháp trên đời trong 49 năm, bày ra bao nhiêu phương tiện giáo
hóa để giúp cho người ngộ đạo; đó là thời đại lập
giáo vậy. Trước khi nhập niết bàn, Ngài ngại người sau
mê chấp nên nói với Văn Thù: Trong số 49 năm qua, ta chưa
từng nói một tiếng, chứ đừng nói là có diễn bày ra những
học thuyết. Nhân đó Ngài đưa lên cành hao. Ðại chúng đều
mang mang, chỉ có tôn giả Ca Diếp mỉm cười. Phật biết
Ca Diếp có điều khế ngộ, liền đem chính pháp nhãn tạng
trao cho, đó là tổ thứ nhất. Ðây là tâm tông truyền
lại, biệt lập ngoài giáo điển vậy. Sau đó Ma Ðằng
đem giáo lý này lưu nhập vào đất Hán, Ðạt Ma
đem tông chỉ này truyền vào Lương Ngụy. Về Giáo Tông thì
đến Thiên Thai Trí Giả là thanh; về Thiền Tông thì người
đạt được tông chỉ vẻ vang nhất là Tào Khê Huệ Năng.
Hai tông này đến nước Việt ta đã lâu rồi. Giáo Tông
thì từ Mâg Tăng Hội. Thiền Tông thì có phái Tỳ Ni
Ða Lưu Chi là phái đầu tiên, rồi đến phái Vô Ngôn
Thông, Hai vị đó là tổ của hai phái vậy". Hậu hỏi:
"Về hai thiền phái ấy, có chứng cơ gì để giảo nghiệm?"
Thiền sư đáp: "Xét truyện Ðàm Thiên pháp sư, ta thấy vào
đời Tùy Cao Tổ, giáo pháp được nâng đỡ rất nhiều. vua
Văn Ðế nói: "Trẫm nghĩ nhớ tới lòng từ bi của đức Ðiều
Ngự khi ngày thuyết dạy chính pháp, không biết làm sao để
báo ân đức này. Từ khi lên ngôi, trẫm đã hỗ trợ tam bảo
khắp nơi, thâu xá lợi di thể để làm bảo tháp thờ khắp
nước đến 49 nơi, để làm nơi dẫn dắt cho nhân gian. Trẫm
đã làm hơn 150 ngôi chùa và tháp. Ta cũng muốn là chùa tháp
ở Giao Châu để cho phước đức được thấm nhuần cả đại
thiên thế giới. Xứ ấy tuy nội thuộc, nhưng ở quá xa. Vậy
pháp sư hãy chọn một số danh tăng sang đó để giáo hóa
khiến cho mọi người đều được biết đến đạo bồ đề".
Pháp sư Ðàm Thiên tâu: "Giao Châu có đường thẳng thông
với Thiên Trúc". Khi Phật Pháp mới tới Giang Ðông chưa
đầy đủ gì thì ở thủ đô Luy Lâu của Giao Châu đã có
tới hai mươi ngôi bảo sát (chùa), độ được h ơn 500 vịt
tăng và dịch được 15 cuốn kinh rồi... Như vậy là vì
Phật Giáo truyền đến Giao Châu trước khi truyền đến Giang
Ðông vậy. Hồi ấy, có các vị Tăng như Ma Ha Kỳ Vực,
Khương Tăng Hội,Chi Cương Lương, Mâu Bác... cư trú tại đó.
Nay lại có Pháp Hiền thượng sĩ, đắc pháp với Tỳ Ni Ða
Lưu Chi, truyền bá tông chỉ của Tam Tổ, là một vị bồ
tát sống, cư trú tại chùa Chúng Thiện, dạy dỗ giáo hóa
đồ chúng có hơn ba trăm người, không thua gì ở Trung Quốc.
Bệ hạ là một bực cha hiền khắp chốn, muốn bình đẳng
bố thí, nhưng đất kia đã có người rồi, ta không cần gửi
người tới nữa".
Thiền
sư Trí Không còn nói tiếp thêm về hai phái thiền Tỳ Ni Ða
Lưu Chi và Vô Ngôn Thông và dẫn thêm chứng cớ. Hoàng thái
hậu rất vừa ý. Sau này thiền sư được triều đình tôn
xưng là Thông Biện quốc sư.
Thông
Biện quốc sư là người học rộng biết nhiều, đã dùng
một sử liệu Trung Quốc. Chúng ta chưa biết tiểu sử Ðàm
Thiên pháp sư mà thiền sư trích dẫn nằm trong sách nào. Những
sách Thích Thị Thông Giams, Phật Tổ Lịch Ðại Thông Tải,
Phật Tổ Thống Kỷ, Tục Cao Tăng Truyện... đều không
thấy chép đoạn này. Nhưng Cao Tăng Truyện khi nói đến
Khương Tăng Hội đã ghi một câu có thể chứng minh được
lời Ðàm Thiên pháp sư nói. Sách này viết: "Khương Tăng Hội
vào năm Xích Ô thứ mười (năm 247. Sách Quảng Hằng Minh
Tập trong Ðại Tạng Ðại chánh trích dẫn Ngô Thư,
nói là năm Xích Ô thứ tư, tức là năm 241.) đến đất Kiến
Nghiệp; vì cảm phục, sự linh ứng của Xá Lợi, vua Ngô Tôn
Quyền bèn dựng chùa Kiến Sơ. Từ đó, Phật pháp tại miền
Giang Nam bắt đầu hưng thịnh". Sách Lương Cao Tăng Truyện
cũng chép tương tự:"Lúc ấy đại pháp đã truyền vào đất
Ngô,nhưng sự hoằng pháp chưa đầy đủ. Tăng Hội muốn cho
Phật pháp được hưng khởi ở miền Giang Tả, và chùa tháp
được kiến lập thêm, nên Ngài mang tích trượng đi về phương
Ðông. Vào năm Xích Ô thứ hai nhà Ngô, Ngài đến Kiến Nghiệp,
và cất một thảo am... Khi Khương Tăng Hội cho thấy tính
cách linh ứng của Xá Lợi Phật, Ngô Tôn Quyền rất kinh dị
và thuần phục, ông liền cho dựng một ngôi chùa thờ Xá
Lợi, gọi là chùa Kiến Sơ. Còn nơi Tăng Hội ở, gọi là
Phật Ðà Lý. Sau đó, đại pháp được hưong thịnh tại miền
Giang Tả".
Trần
Văn Giáp nêu nghi vấn về Ðàm Thiên pháp sư, nói rằng Ðàm
Thiên sống trong triều đại nhà Tề, không phải Tùy. Sự
thực là Ðàm Thiên sống trong triều đại nhà Tùy, là một
vị pháp sư được vua Tùy Văn Ðế kính trọng vào bậc nhất
(Xem Phật Tổ Lịch Ðại Thông Tải).
Mười
lăm cuốn kinh đã được dịch ra Hán tự và lưu hành tại
Giao Châu vào cuối thế kỷ thứ hai là những kinh nào? Ta biết
chắc chắn là trong số đó có kinh Tứ Thập Nhị Chương,
bởi sách Lý Hoặc Luận của Mâu Bác có nói tới têm
kinh này. Con số 15 bộ kinh có thể không đúng, cũng như lời
nói của Ðàm Thiên: "Giáo Tông bắt đầu từ Mâu Tử và Khướng
Tăng Hội" đã không đúng. Cả hai người Mâu Tử và Khương
Tăng Hội, đều không phải là người nước ngoài tới truyền
đạo, trái lại cả hai người đều bắt đầu học Phật
tại Giao Chỉ. Như thế, họ không phải là những người mà
tên tuổi còn thấy rõ ràng trong sử sách thôi. Khương Tăng
Hội xuất gia tại Giao Chỉ, có tam sư và thất chứng. Mâu
Tử cũng đã xuất gia. Trong Lý Hoặc Luận có nhiều
đoạn khiến ta nghĩ rằng số kinh điển lưu hành tại Giao
Chỉ dồi dào hơn con số Ðàm Thiên kể ra gấp bội. Ta đọc
thử đoạn sau đây của Lý Hoặc Luận:
"Người
ta hỏi Mâu Tử: Chân lý chí thật thì thường không văn hoa,
lời nói chí lý thì không hoa hòe... cho nên châu ngọc thì
quý giá mà ngói vụn thì là đồ bỏ. Xưa thánh nhân chế
ra bảy kinh, văn từ không quá ba vạn lời và không có gì
không đủ trong từng ấy kinh văn. Ngày nay, chương điển của
Phật Giáo có đến hàng ngàn ức, sức một người không thể
nào đọc hết được. Tôi chán và không muốn đọc".
Một
đoạn khác:
"Người
ta hoải Mâu Tử: Lời lẽ trong kinh Phật không chỉ bày được
chân lý của vạn vật mà chỉ dùng ví dụ quá nhiều.. Dù
lời lẽ nhiều nhưng cũng như chiếc xe bò đựng đầy bụi
ngọc, người ta không cho là quý".
Những đoạn trên, viết vào cuối thế kỷ thứ hai hẳn có thể cho ta một khái niệm về số lượng kinh Phật lưu hành ở Giao Chỉ thời ấy. Rất tiếc ta không biết được đó là những kinh gì, ngoài kinh Tứ Thập Nhị Chương, kinh Bản Sinh (Vessantara - jātaka trong đó có chuyện thái tử Tu Ðại Noa) và kinh Bản Sự (đời của Phật), nhờ một vài chi tiết của Lý Hoặc Luận. Có thể trong số kinh điển kia cũng có cả một bản dịch Milinda - panha nữa, bởi vì thể tài Lý và Luận là thể tài vấn đáp bắt chước y hệt như Di Lan Vấn Ðạo Kinh, và trong văn học Trung Hoa trước đó cũng như sau đó hàng trăm năm cũng không có một tác phẩm nào viết theo đề tai ấy. Ðàm Thiên còn nói tới việc "độ được hơn 500 vị tăng". Danh từ "độ Tăng" ở đây có nghĩa là làm lễ truyền giới Sa Môn xuất gia để người cư sĩ trở thành người tăng sĩ. Số tăng sĩ này chắc chắc là tăng sĩ Giao Châu, bởi vì những tăng sĩ ngoại quốc có mặt tại đó đã là tăng sĩ rồi, không cần phải "độ" nữa. Ðiều này cũng xác nhận thêm về sự có mặt của một tăng đoàn quan trọng tại Giao Châu vào thế kỷ thứ hai phù hợp với lời nói của Mâu Tử về những tệ đoan trong giơi Sa Môn thời ấy. 6. Tại trung tâm Luy Lâu, việc sáng tác được chú trọng sớm hơn ở các trung tâm khác, như ta đã biết, Mâu Tử viết tập Lý Hoặc Luận là cuốn sách sáng tác về đạo Phật cổ nhất mà ta hiện có bằng Hán tự. Tăng Hội cũng chú trọng nhiều về sáng tác: ông đã biên tập cuốn Lục Ðộ Yếu Mục, sáng tác Nê Hoàn Phạm Bối, chú giải các kinh An Ban Thủ Ý, Pháp Cảnh và Ðạo Thọ cũng viết bài tựa cho ba kinh này (Cao Tăng Truyện). Trong những kinh Tăng Hội dịch, bây giờ chỉ còn Lục Ðộ Tập Kinh, mà Thang Dụng Hình nghĩ là một tác phẩm của Tăng Hội chứ không phải một bản dịch từ Phạn văn. Những chú sớ của Tăng Hội về các kinh An Ban Thủ Ý, Pháp Cảnh và Ðạo Thọ đã mất, duy các bài tựa các kinh An Bang Thủ Ý và Pháp Cảnh là còn. Trong số những tác phẩm kia, một số đã được sáng tấc tại đất Kiến Nghiệp, và một số tại Giao Châu. Ðiều ta cần lưu ý đây là so với các trung tâm Lạc Dương và Bành Thành, trung tâm Luy Lâu ngoài việc dịch thuật: Chi Khiêm ở Kiến Nghiệp tuy có biên tập Tán Bồ Tát Liên Cú Phạm Bối và chú thích Liễu Bản Sinh Tử Kinh ngoài ra đều là tác phẩm dịch thuật. Ta có thể kết luận là trung tâm Phật Giáo Luy Lâu đã trưởng thành trước hai trung tâm Phật Giáo đất Hán. [1]
Tác phẩm này được viết vào cuối thế kỷ thứ hai
[2]
Do Trung Hoa Thư Cục ở Bắc Kinh tái bản năm 1963. Bản đầu
tiên được in năm 1955.
[3]
Theo câu chuyện này, vua Hán Minh Ðế nằm mộng thấy một
người vàng bay qua trước điện, sáng ra cho người đi sang
Tây Vức để tìm đạo Phật. Chuyện được cho là xảy ra
trong niên hiệu Vĩnh Bình thứ mười, tức là năm 67 của thế
kỷ thứ nhất kỷ nguyên Tây lịch.
[4]Hán
Linh Ðế mất vào năm 189.
|
|
|
|
|