|
CHƯƠNG XXV CÁC DANH TĂNG ÐỜI NGUYỄN Vua Gia Long thắng Tây Sơn, lên ngôi năm 1802. Những năm chinh chiến đã để lại bao nhiêu đổ nát trong xứ sở. Tự viện và tăng sĩ cũng chịu chung số phận: nhiều chùa chiền bị phá hủy, các trung tâm tu học bị giải tán, tăng sĩ tản mác mọi nơi. Một số các cao tăng trở về kiến thiết lại các tổ đình và tổ chức trở lại sự tu học. Các vua Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Ðức cũng có để tâm đôi chút về việc phục hưng lại đạo Phật. Năm 1815, vua Gia Long sắc tu bổ lại chùa Thiên Mụ. Năm 1826, vua Minh Mạng lại sắc dựng lại chùa Thánh Duyên. Chùa này ở gần cửa biển Tư Hiền, tỉnh Thừa Thiên, do chúa Nguyễn Phúc Chu lập, và bị phá hủy trong cuộc chiến tranh Tây Sơn. Năm 1830, vua Minh Mạng triệu cao tăng các tỉnh về Kinh, nhờ Bộ Lễ xem xét rồi ban cấp giới đạo và độ điệp(125). Có cả thảy năm mươi ba vị được cấp giới và độ điệp, trong đó có Phúc Ðiền, người san hành sách Ðại Nam Thiền Uyển Truyền Ðăng Tập Lục. Năm 1844, vua Thiệu Trị, theo di chúc của vua Minh Mạng, sắc dựng một ngôi tháp lớn bảy tầng ở chùa Thiên Mụ, gọi là Từ Nhân Tháp(126). Cũng trong năm này, vua sắc dựng chùa Diệu Ðế. Năm 1849, vua Tự Ðức sắc các chùa công như Thiên Mụ, Giác Hoàng, Thánh Duyên, Tam Thai, v.v... mỗi chùa phải được chủ trì bởi một vị tăng cương để lãnh đạo tăng chúng tu học, các vị tăng cương này đều có lương bổng của chính phủ chi cấp. Năm 1853, vua Tự Ðức lại sắc ban ruộng đất cho các chùa như Thiên Mụ, Diệu Ðế, Thánh Duyên, Linh Hựu, Long Quang, Tam Thai, Ứng Chân và Khải Tường. Thiền sư Mật Hoằng là người tỉnh Bình Ðịnh, đệ tử của thiền sư Linh Nhạc, thuộc pháp phái Nguyên Thiều. Khoảng đầu thế kỷ thứ mười chín, ông hành đạo tại các miền vùng Gia Ðịnh, và đạo phong ông được vua Gia Long biết đến. Năm 1815, vua Gia Long triệu ông về kinh, ban cấp chứng chỉ Tăng Cương và thỉnh ông trú trì tổ đình Quốc Ân do thiền sư Nguyên Thiều khai sơn. Ông đã trùng tu tổ đình này, biến Quốc Ân thành một phạm vũ lớn. Sau đó ông lại khởi sự trùng tu chùa Thập Tháp Di Ðà ở Bình Ðịnh, chùa gốc của ông và cũng do thiền sư Nguyên Thiều sáng lập. Thiền sư Phổ Tịnh người tỉnh Quảng Nam, hiệu là Ðạo Minh, đề tử của thiền sư Chiếu Nhiên, thuộc phái Liễu Quán. Năm 1808, ông được bà Hiến Khương hoàng thái hậu thỉnh trú trì chùa Thiên Thọ (tức chùa Báo Quốc bây giờ). Ông tịch năn 1816. Ông có một người đệ tử xuất sắc là thiền sư Nhất Ðịnh. Thiền sư Thanh Ðàm hiệu Minh Chính là trú trì chùa Bích Ðộng ở làng Ðam Khê, phủ An Khánh, tỉnh Ninh Bình. Ông là đệ tử của thiền sư Ðạo Nguyên, lúc bây giờ đang chủ trì thiền viện Nguyệt Quang, một tổ đình của môn phái Chân Nguyên. Thanh Ðàm xuất gia năm 1807, thọ cụ túc giới năm 1810. Ðến năm 1819, ông sáng tác sách Pháp Hoa Ðề Cương tại Liêm Khê Viện. Năm 1843, ông sáng tác sách Tâm Kinh Trực Giải. Hồi mới xuất gia, một hôm ông hỏi thiền sư Ðạo Nguyên: - Tâm không phải ở trong thân, cũng không ở ngoài thân, cũng không ở chặng giữa. Vậy tâm rốt cuộc nằm ở đâu? Ðạo Nguyên mỉm cười xoa đầu ông và cho ông bài kệ:
Tùy thời ứng dụng Ngày
thọ giới cụ túc, ông cũng được Ðạo Nguyên cho một bài
kệ:
Trán phóng hào quang đâu phải Phật (Quang phóng mi gian vô đạo Phật Pháp
Hoa Ðề Cương
Pháp
Hoa Ðề Cương là một tác phẩm biên khảo giá trị. Văn
của Thanh Ðàm viết gọn, chen lẫn thơ kệ và có nhiều giá
trị văn học. Pháp Hoa Ðề Cương có thể nói là cẩm
nang cho người đọc kinh Pháp Hoa. Cũng như có địa bàn
trong tay người thủy thủ không còn sợ mất bến mất bờ,
có
Pháp Hoa "Ðề Cương thì người đọc kinh sẽ nắm
được ý chỉ của Kinh. Thanh Ðàm đã đọc Pháp Hoa
với con mắt của nhà Thiền học. Ông lại thường hay đối
chiếu
Pháp Hoa với Lăng Nghiêm và Kim Cương
nhận
thức của ông về giải thoát được trình bày gọn ghẽ trong
bài
Bạt nói về năm chữ Diệu pháp Liên Hoa Kinh.
Theo ông, Diệu tức là Tâm, là chân tâm sáng suốt tròn đầy.
Chân tâm này không thể đạt tới bằng suy tư và nghị luận.
Còn Pháp là Căn, Trần và Thức. Căn, Trần, Thức đều do
chân tâm lưu xuất. Trong ba thứ: căn, trần và thức thì căn
là thứ gần gũi nhất, có thể quán sát để tìm về chân
tâm. Không thể chỉ bày Chân Tâm, chỉ có thể chỉ bày dấu
vết ứng dụng của chân tâm trên căn tính. Căn tính cũng
như mặt trăng thứ hai mà ta trông thấy khi ta dụi mắt, nhưng
mặt trăng thứ hai tuy hư vọng nhưng cũng cùng một thể với
mặt trăng thứ nhất. Căn tính cũng cùng một thực thể với
chân tâm.
Người
tu đạo do sự quán sát sự ứng dụng của tâm trên căn trần
mà thông đạt tới chân tâm hay là tự tính, và ngộ đạo.
Sau đây là những dòng của Thanh Ðàm viết:
"Diệu là chỉ chân tâm thanh tịnh xưa nay, Tâm này từ vô thủy đến nay tùy duyên bất biến, bất biến tùy duyên, nơi thánh không thêm, nơi phàm không bớt, lấm không dơ, rửa không sạch, lặng lẽ tròn đầy pháp giới, mênh mông đầy khắp không hư. Tâm là nguồn gốc của chư Phật mà cũng là Phật tính của chúng sinh, nguyên không có tướng trạng và mọi tướng trạng đều từ đó phát hiện, vốn là chân không mà cái không lại cũng từ đấy sinh ra. {Tâm ấy} giống như viên ngọc ma ni trong vắt, không có mầu sắc mà gọi màu sắc có thể tự do xuất phát; cũng như biển giác lặng đầy, ảnh chiếu lục trần mà không nhận một hạt bụi, là họa sư vẽ nên mười pháp giới, là mẹ trí tuệ của tất cả các đức Như Lai. Kinh Hoa Nghiêm có nói: Nếu ai muốn hiểu biết Mục
đích tối hậu của sự tu tập là tâm ấy vậy. Hỏi: Tâm
linh diệu như thế làm sao nắm được? Ðáp: Ngôn thuyết và
biểu thị không thể nắm được chân tâm. Kinh Pháp Hoa
nói rằng:
Thôi, thôi! đừng nên nói Hai
chữ "thôi, thôi!" diễn tả được bản thể bất động
của Tâm. Ba chữ: "đừng nên nói" có nghĩa là tâm vượt
ra khỏi đối tượng của ngôn thuyết và biểu thị. Chữ
"ta" chỉ bản tâm của chính mình. Chữ "pháp" chỉ cho
sự ứng dụng của tri kiến. Chữ "mầu" chỉ cho sự linh
diệu của Tâm, từ Tâm phát sinh ra mọi pháp mà chính tâm
thì không có tướng trạng nào hết. Hai chữ "khó nghĩ"
có nghĩa là không thể tư duy về Tâm. Tổ sư đã dạy: "Móng
Tâm là đã sai, động niệm đã trái", vì vậy cho nên nói
"mầu khó nghĩ". "Những kẻ tăng thượng mạn" là ai?
Ðó là những người vướng vào tướng, chấp và pháp, những
người đang cưỡi trâu mà lại tìm trâu, đem đèn đã cháy
mà xin lửa, trên tuyết còn thêm sương. Ðó là những kẻ
tự khinh mình, cho rằng cái linh diệu kia chỉ có tổ và Phật
mới có, ta chẳng thể nào có được, cho nên mới chạy tìm
bên ngoài. "Nghe thấy chẳng kính tin" nghĩa là nếu đã
tự khinh mình, cho rằng tâm linh diệu dó không phải của mình,
cho nên không biết quý trọng giữ gìn, như đứa con nghèo
khó kia(127).
Nếu nhận ra được drằng nhà mình có của báu, thì không
còn tự khinh cũng cũng không còn nghèo đói. Mỗi phút giây
trở về nhìn lại Hào Quang mầu nhiệm, không cần tìm đuổi
theo ngôn từ và phân biệt, đó gọi là kẻ biết kính tin.
Kính tin lại thêm kính tin, viên ngọc gia bảo mầu nhiệu kia,
mầu nhiệm thay, cũng một lúc tất cả chúng ta đều có. Vậy
hãy "Thôi, thôi! đừng nên nói!".
Bài
tụng về cái Diệu của Diệu như sau:
Không hình không trạng cũng không tên Pháp
là
tất cả mọi vật, là sự ứng dụng của Diệu Tâm. Diệu
Tâm là nguồn thiêng của mọi vật. Pháp là Tâm, Tâm là Pháp.
Pháp là tùy duyên của Diệu Hữu - khi không nhiễm thì
gọi là diệu pháp. Tâm là ứng vật của Chân
Không, nên không vướng vào trần thì gọi là chân tâm.
Mượn
cái gì mà nói được về chân tâm? Nói về diệu pháp thế
nào để không ngăn ngại sự tu chứng? Các pháp môn để tu
chứng thì nhiều vô lượng, ta phải tìm pháp môn nào gần
nhất để đi vào... Vả lại các pháp tuy vô số mà bất quá
đều quy về căn, trần và thức.
Ba thứ này đều
do Diệu Tâm hiển hiện, cho nên thường nói "pháp từ tâm
sinh khởi, tâm là nguồn pháp". Một niệm nghĩ lúc ban sơ
đã khiến cho biến hóa vạn cách, trôi nổi liên tiếp, sinh
diệt luân hồi, cho mãi đến bây giờ vẫn còn đuổi theo
vọng tưởng, quên mất chân tính, giống như anh chàng Diễn
Nhã(128)
quên đầu nhận bóng. Nay muốn khai thị và đốn ngộ nguồn
tâm thì trước hết phải biết thức là huyễn ảnh,
trần
là
hoa đốm hư không, cả hai thứ đều không tự sử dụng làm
căn cứ để tu hành; phải lấy căn làm phương tiện gần
gũi để tu tập. Tại sao vậy? Tại vì trần không có tự
thể. Thức cũng không có tự thể thực hữu, nhờ trần
cho
nên mới sinh diệt và qua lại được. Ðã sinh diệt qua lại
tức là vô thường. Chỉ có căn tính mới là thường
tại, nên Phật bảo căn tính này là Diệu Căn, Căn Pháp là
Diệu Pháp. Căn Pháp dù cũng do tâm hiện ra, như mặt trăng
thứ hai cùng với mặt trăng thứ nhất là một, lúc đè mí
mắt thì có, lúc biết thì không có, thế thôi. Khi có vọng
tưởng thì căn tính là chân tâm thứ hai vậy. Khi ở trong
trạng thái vô tướng linh tri, thì chân tâm là cái chân tâm
thứ nhất. Tuy vậy căn tính và linh tri cùng một thể, chỉ
khi mê thì thấy có căn tính, khi ngộ thì căn tính không còn.
Căn tính ấy cũng là một với bản tâm thanh tịnh xưa nay,
không hư huyễn như Trần và Thức. Cho nên Pháp chỉ bày rằng
căn tính là nhân địa gần nhất cho sự tu hành, khiến cho
chúng sinh có thể đi vào chân tâm bằng cánh cửa căn tính;
vào dòng, trở nên đầu nguồn, thấy được tâm thể xưa
nay của mình. Hỏi: Tại sao không chỉ thẳng
cái thứ nhất
là Diệu tâm xưa nay; mà lại chỉ cái thứ hai là Căn
Tính để làm phương tiện tu hành? Ðáp: Tâm vốn vô hình,
làm sao mà chỉ?
Trước
kia tôi đã nói một lần rồi: ngôn thuyết và biểu thị không
nắm được Tâm. Tuy vậy, dù Tâm vô hình, nhưng sự ứng dụng
của căn lại có vết tích, vì có vết tích nên có thể chỉ
bày, khiến cho người tu học có thể nhìn vết tích của sự
ứng dụng, do ánh sáng ấy mà về được Tâm.
Hỏi:
Dấu vết ấy ở đầu?
Ðáp:
Ở trên đối tượng lục trần. Do sức mà có cái thấy, do
thanh mà có cái nghe: lục trần là dấu vết ứng dụng của
lục căn. Nay muốn nắm được dấu vết của thì phải quán
sát cái thấy cái nghe nơi đối tượng sắc thanh. Nên biết
rằng công dụng của Căn là công dụng của Tâm, căn nhận
thức là tâm nhận thức; cái khác nhau là căn có sáu công
dụng mà tâm chỉ có một bản thể tinh minh. Các Ðức Phật
truyền cho nhau căn pháp này, các vị tổ truyền nhau Tâm Tông
ấy ấy. Ðó là bí quyết mà các kinh chỉ bày để đắc căn
bản trí. Pháp ấn truyền giữ qua các thời đại cũng lấy
cái ấy để phát giác sơ tâm. Chứng ngộ mau hay chậm là
vì căn cơ rộng hay hẹp. Nên biết rằng pháp này được đặt
tên tùy theo trương hợp và địa phương, tuy sai biệt vô cùng
mà cũng chỉ là pháp ấy. Lại cũng nên biết là danh hiệu
của chư Phật và đề mục của các kinh cũng đều là biệt
hiệu của pháp ấy.
Hỏi:
Tâm ấy làm sao mà trao truyền?
Ðáp:
Ðức Thế Tôn đưa lên một nhành hoa, Ca Diếp mỉm cười,
sau đó các tổ truyền lại, giữ gìn, trường hợp khác nhau,
chỉ có người giác ngộ mới tự biết lấy.
Hỏi:
Tu trì làm sao?
Ðáp:
"Thôi, thôi!" đó là phương pháp; thiền sư Ðạo Xuyên
nói:
Tri âm, tự khắc từng theo gió Lại
nói:
Nắm được ở tâm Hỏi:
Mục đích tối hậu là gì?
Ðáp:
Phổ Hóa hòa thượng nói: "Tìm chỗ đi tới không được".
Và bài kệ nguyện trong kinh Hoa Nghiêm cũng nói:
"Nghiêng
mình làm lễ trước biển Chân Tính Hoa Nghiêm và trước tất
cả các bậc quang minh biến chiếu trước thế giới trang nghiêm
do hạnh nguyện Phổ Hiền thiết lập và trước kho tàng pháp
giới Chân Như".
Thôi
xin chào, xin chào! Có bài kệ về pháp của Pháp như sau:
Vạn pháp tuy nhiều không đếm xiết Bát
Nhã Trự Giải là một tác phẩm nhằm giải thích Tâm
Kinh Bát Nhã Ba La Mật Ða. Tác phẩm này cũng chứa đầy
thi, kệ và tán như tác phẩm trước. Tâm Kinh được xét dưới
bốn khía cạnh: tín (đức tin), giải (sự thông
hiểu),
hành (sự thực hành) và chứng (sự đạt
đạo). Thiền sư Thanh Ðàm phân tiách kinh ý ra mười mục
như sau:
1-
Ðề mục
2-
Chính nhân
3-
Hạnh môn
4-
Khai thị
5-
Thực tướng
6-
Tảo nhị chấp
7-
Vô sở đắc
8-
Tịch diệt
9-
Tu chứng
10-
Nguyện mãn
Sau
đó, Thanh Ðàm giải thích bài kệ Bát Nhã của Cổ Ðức,
bàn về Lục Căn, Thất Ðại.
Ðề Án Tham Cứu
Thiền
sư Thanh Ðàm chịu ảnh hưởng rất sâu đạm bài kệ đầu
tiên mà Ðạo Nguyên trao cho mình, cho nên tất cả phương pháp
tu hành mà ông chỉ bày nằm gọn trong các chữ "Tùy thời
ứng dụng", "Ngộ vật kiến cơ". Ông đã hiểu tám chữ
đó trong ánh sáng của Pháp Hoa, Lăng Nghiêm và
Bát
Nhã. Ông đề ra ba công án sau đây để giúp độc giả
của ông tham cứu về Chân Tâm:
1- Thế Tôn xuất thế bởi vì đâu? (Thế Tôn xuất thử dĩ hà duyên? 2- Từ Tây phương đến chỉ tâm tông (Tây lai trực vị chỉ tâm tông 3- Huệ Năng được ấn pháp Kim Cương (Huệ Năng đắc pháp ấn Kim cương Ba
nghi vấn đưa ra để tham cứu:
1)
Tại sao Phật phải đợi đến lúc gần nhập diệt mới chịu
thuyết kinh Pháp Hoa?
2)
Bồ Ðề Ðạt Ma qua Ðông Ðộ để chỉ bày tâm tông, tại
sao lại ngồi nhìn vách chín năm, hay là tại chưa thực sự
giác ngộ?
3)
Huệ Năng nếu quả thật đắc pháp ấn với Ngũ Tổ, tại
sao không ở ngay đó để hoằng đạo mà lại chạy về Lĩnh
Nam?
Ba
đề tài trên đây tuy vậy còn mang tính chất suy luận. Công
án sau đây có lẽ mới là công án mà thiền sư Thanh Ðàm
ưa thích và sử dụng. Ta có thể gọi nó là công án Thần
Ðà(129)
Niêm: Hay lắm, Thuần Ðà Tụng: Không nói ngắn, chẳng nói dài Bài thơ ngộ nghĩnh nhất của Thanh Ðàm là bài thơ Tìm Tâm, có âm hưởng tiếng trống đánh: Ngang lưng đeo trống đối tri âm (Kiên kình yêu cổ đối tri âm Thiền
sư Thanh Ðàm cũng thuộc pháp phái Trúc Lâm. Cuối tác phẩm
Pháp
Hoa Ðề Cương, ông có nêu lên hai câu kệ "Lục Căn Thất
Ðại" của Trúc Lâm Ðiều Ngự và căn cứ vào đó làm ra
mười ba bài kệ về lục căn và thất đại. Hai câu ấy như
sau:
"Lục căn hư vọng, vô phi bồ đề diệu tâm (Sáu căn hư vọng, mà căn nào cũng là diệu tâm giác ngộ, Một
lần nữa ta thấy ông nhấn mạnh tới nguyên tắc "Căn Tính
và Diệu Tâm là một".
Thiền
sư Thanh Nguyên, hiệu Minh Nam, là người viết bài tựa cho
sách Pháp Hoa Ðề Cương của Thanh Ðàm. Hai vị có lẽ
cùng một bản sư và một môn phái. Sau đây là bài kêï của
ông tán dương sách Pháp Hoa Ðề Cương:
Hồ xanh trong biếc nảy sen thơm (Bích thanh đàm xuất diệu liên hương Bài
tựa sách Pháp Hoa Ðề Cương được viết vào tháng
tám âm lịch năm 1820. Hai chữ Minh Chính trong bài thơ là pháp
hiệu của Thanh Ðàm.
Ông
là tác giả Tam Giáo Thông Khảo. Sách cũng có tên Ðạo
Giáo Nguyên Lưu, được biên tập vào khoảng giữa thế
kỷ thứ mười chín, trong thời gian vua Thiệu Trị còn tại
vị. Thiền sư An Thiền trú trì tại chùa Ðại Giác ở làng
Bồ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Sách Tam Giáo Thông Khảo gồm
ba quyển. Có lẽ sách được in năm 1845, bởi vì đầu sách
có một bài tựa ký tên Nguyễn Ðại Phương, viết vào năm
1845. Quyển thứ nhất nói về đạo Phật, gồm có những mục
sau đây:
1-
Phụng
Chiếu Cầu Pháp: Việc du học của thiền sư Tính Tuyền
Trạm Công
2-
Bản
Quốc Thiền Môn Kinh Bản: Các bản kinh khắc ở Việt Nam.
3-
Ðại
Nam Thiền Học Sơ Khởi: Khởi thủy Thiền học Việt Nam.
4-
Ðại
Nam Phật Tháp: Các tháp Phật ở Việt Nam.
5-
Vô
Ngôn Thông Truyền Pháp: Thiền phái Vô Ngôn Thông.
6-
Danh Chấn Triều Ðình: Các cao tăng nổi tiếng ở triều
đình.
7-
Lê
Triều Danh Ðức: Các cao tăng đời Tiền Lê
8-
Lý Triều Danh Ðức: Các cao tăng đời Lý
9-
Trần
Triều Danh Ðức: Các cao tăng đời Trần.
10-
Tỳ Ni Ða Lưu Chi Truyền Pháp: Thiền phái Tỳ Ni Ða Lưu
Chi
11-
Tuyết
Ðậu Truyền Pháp: Thiền phái Thảo Ðường.
12-
Những việc thần bí liên quan đến các thiền sư Việt Nam
qua các triều đại.
13-
Danh từ Phật học và các thần thoại trong Phật giáo ở Trung
Hoa và Việt Nam.
Quyển
thứ hai và quyển thứ ba nói về Khổng và Lão Giáo.
Thiền
sư Nhất Ðịnh pháp danh là Tính Thiên, người Quảng Trị,
sinh năm 1783. Ông xuất gia hồi còn là một nhi đồng, lớn
lên được thiền sư Phổ Tịnh chùa Thiên Thọ làm lễ thế
độ làm sa di. Sau ông thụ giới cụ túc với thiền sư Mật
Hoàng ở chùa Quốc Ân. Vâng mệnh vua Gia Long, ông giữ chức
vụ trú trì chùa Thiên thọ.
Năm
1833, vua Minh Mạng thỉnh ông trú trì chùa Linh Hựu. Năm 1839
vua lại thỉnh ông làm Tăng Cương chùa Giác Hoàng. Tính ông
ưa vân du nên không thích quản đốc các chùa quốc tự. Năm
1843, ông xin từ chức Tăng Cương chùa Giác Hoàng, được vua
Thiệu Trị chấp nhận. Ông rất hài lòng, nói:
(Hạnh phùng tấu dắc nhưng hồi lão Mấy
năm sau đó, ông lên núi Dương Xuân Thượng quận Hương Thủy,
tỉnh Thừa Thiên, dựng một thảo am để ở, gọi là An Dưỡng
Am. Cảnh trí ở đây u nhàn đẹp đẽ. Ông tu ở đây cho đến
năm 1847 thì tịch, thọ đúng sáu mươi bốn tuổi. Ba người
đệ tử xuất sắc nhất của ông là Lưỡng Duyên, Cương
Kỷ và Linh Cơ.
Thái
giám viện nương vào đức độ của ông, dựng chùa lớn tại
địa điểm An Dưỡng Am, đặt tên là chùa Từ Hiếu, kiến
trúc tương tự kiến trúc lăng vua Tự Ðức. Tên chùa là Từ
Hiếu vì các đệ tử ông vẫn nhớ lúc sinh tiền ông rất
có hiếu với cha mẹ, dù đã đi xuất gia.
Ông
họ Ðỗ, pháp danh là Hải Thuận, sinh năm 1805 tại làng Bích
Khê, Quảng Trị. Năm mười ba tuổi, ông vào làm điệu chùa
Thiên Thọ (Báo Quốc). Năm hai mươi tuổi được thụ giới
sa di với thiền sư Bản Giác ở chùa này. Năm 1835, ông được
Bộ Lễ ban cấp giới đao và độ điệp, và đắc pháp với
thiền sư Nhất Ðịnh ở chùa Linh Hựu. Ông trú trì chùa Diệu
Ðế, đứng ra trùng tu các chùa Huệ Lâm, Báo Quốc và Kim
Tiên. Năm 1895, ông tổ chức đại giới đàn tại chùa Báo
Quốc.
Ông
có nhiều đệ tử đắc pháp xuất sắc như các thiền sư
Tâm Quảng, Tâm Thể, Tâm Truyền và Tâm Tịnh.
Ông
mất năm 1896, thọ chín mươi mốt tuổi.
Thiền
sư Tịch Truyền pháp danh là Kim Liên, người làng Trình Viên
ở Thượng Phúc, tỉnh Hà Nội. Sinh năm 1746, ông xuất gia
hồi bé, lớn lên được thiền sư Hải Quỳnh ở chùa Liên
Tông làm lễ thế độ. Ông trú trì chùa Vân Trai, tu hành rất
tinh tấn, giữ giới cẩn mật. Năm 1816, ông tịch, thọ bảy
mươi tuổi. Ðệ tử đầu của ông là thiền sư Chiếu Khoan.
Ông có để lại bài kệ sau đây:
(Tâm vi thiên địa tiên Ông
họ Nguyễn, sinh năm 1741 ở làng Trình Viên, tỉnh Hà Nội.
Ông xuất gia từ hồi còn bé, ở chùa Vân Trai, pháp danh là
Tường Quang, đệ tử của thiền sư Tịch Truyền. Ông ưa
tu hạnh đầu đà, tịch cốc ba năm, và trong sáu năm liền,
ông chỉ ăn mỗi ngày một bữa. Ông học đức khiêm cung,
hễ vị tăng nào đến chùa là ông đắp y ra đảnh lễ, không
phân biệt cấp bực. Ðệ tử quy y rất đông. Ði đến đâu
ông cũng khuyên người tu phúc, bố thí, phóng sinh, chép kinh,
giảng kinh.
Ông
tịch năm 1830. Ðệ tử đầu tay của ông là thiền sư Phổ
Tinh.
Thiền
sư Phúc Ðiền là người có công đức lớn trong việc bảo
tồn sử liệu Phật giáo. Ông biên soạn sách Ðại Nam Thiền
Uyển Truyền Ðăng Tập Lục(130).
Ông trú trì chùa Liên Tông, làng Bạch Mai, tỉnh Hà Ðông nhưng
công việc san khắc này được thực hiện tại chùa Bồ Sơn,
huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh.
Công việc san khắc, ông giao cho thiền sư Phương Viên, giám tự chùa Bồ Sơn đứng ra chủ trì. Một vị tăng chùa Bồ Sơn pháp danh là Thanh Hà phụ trách việc viết chữ khắc bản. Thiền sư Phúc Ðiền viết bài tựa cho sách đầu năm 1859, và có lẽ sách được ấn hành trong năm đó. Phúc Ðiền cũng là người khai sơn chùa Thiên Quang, ở núi Ðại Hùng, tỉnh Hà Nội. Chùa này được thiền sư Phổ Tịnh hồi nhỏ đã theo thiền sư Phúc Ðiền để tu học, sau này ông thụ giới cụ túc với thiền sư Chiếu Khoan. Ông quê ở làng Vũ Lăng, ở Thượng Phúc, tỉnh Hà Nội, xuất gia theo học với thiền sư Phúc Ðiền, lớn lên thụ giới cụ túc với thiền sư Chiếu Khoan ở chùa Vân Trai. Sau đó ông về trú trì chùa Thiên Quang ở núi Ðại Hùng, do Phúc Ðiền kiến tạo. Ông có để lại bài thơ sau đây:
(Kinh niên tĩnh tọa đại hùng phong Thiền
sư Thông Vinh người làng Nhân Kiệt, tỉnh Hải Dương. Hồi
còn bé ở chùa Hàm Long với thiền sư Tính Ngạn, lớn lên
được thụ giới cụ túc với thiền sư Phúc Ðiền. Ông có
công tu tạo lại nhiều ngôi chùa. Ðệ tử rất đông, đi
hoằng hóa khắp nơi. Ông có để lại bài kệ sau đây:
(Tâm không canh tịch Thiền
sư Liễu Thông pháp danh là Chân Giác, tên tục là Huỳnh Ðậu,
sinh năm 1753 ở Thanh Hóa. Trên đường du hóa, ông vào tận
Gia Ðịnh, vùng đất Cây Mai, dựng thảo am trên nền một
ngôi chùa Thủy Chân Lạp đã đổ nát để thiền tọa. Nền
này ở trên một chiếc gò cao. Một hôm, thấy chim phụng hoàng
đến đậu trên cây ngô đồng trước am, ông liền đặt tên
gò là Phụng Sơn và am là Phụng Sơn Am. Dần dần Phụng Sơn
Am trở thành chùa Phụng Sơn, thiền sư Liễu Thông ở lại
đây hành đạo cho đến khi viên tịch. Ðó là vào năm 1840.
Ðệ tử của ông là thiền sư Hải Linh, pháp danh Quảng Tú,
tên tục là Lê Văn Núi, kế thế trú trì chùa Phụng Sơn.
Thiền sư Hải Linh trú trì tại đây suốt năm mươi sáu năm,
đến năm 1896 thì viên tịch. Tháp của hai vị tổ chùa Phụng
Sơn được xây dựng trong đất chùa. Sau khi Hải Linh mất,
một vị thiền sư tên là Thanh Sơn, pháp danh Ðạt Bích kế
tiếp trú trì chùa Phụng Sơn. Thanh Sơn trú trì được gần
bốn năm thì tịch. Bổn đạo chùa Phụng Sơn liền đến thỉnh
thiền sư Thanh Mãng, pháp danh là Thiện Ðịnh, lúc đó trú
trì chùa Tịnh Ðộ ở làng Tân Sơn Nhất, về trú trì chùa
Phụng Sơn. Thiền sư Thanh Mãng nhận lời và ủy cho một vị
đệ tử trẻ là Huệ Minh thay mặt mình chăm sóc chùa Phụng
Sơn. Huệ Minh vân du học đạo, chùa Phụng Sơn được thiền
sư Như Chấn người Gia Ðịnh, xuất thân từ chùa Giác Viên,
đến trú trì.
Thiền
sư Như Chấn, pháp danh là Thiện Nghĩa, tự thiêu nhằm ngày
Phật đản năm 1903. Thiền sư Huệ Minh du học về, làm lễ
hỏa táng Như Chấn, và xây cất lại chùa Phụng Sơn thành
một ngôi Phạm Vũ. Chùa hoàn thành vào năm 1915(131)
Ông
trú trì chùa Tập Phước, tỉnh Gia Ðịnh, Ông lại là sư
huynh của thiền sư Mật Hoàng, phát xuất từ chùa Thập Tháp,
Bình Ðịnh, và là đệ tử của thiền sư Linh Nhạc, dòng
dõi của thiền sư Minh Lương Nguyệt Am, pháp phái Nguyên Thiều.
Chùa Tập Phước đã được dựng vào hồi thế kỷ thứ mười
tám, trong đời chùa Nguyễn Phúc Khoát. Ông là bạn của Trịnh
Hoài Ðức. Khi về làm tổng trấn Gia Ðịnh, Trịnh Hoài Ðức
có tặng ông một bài ngũ ngôn cổ điệu. Bài thơ như sau:
tạm
dịch:
Nhớ xưa hồi thái bình Bài
thơ này có lẽ được viết năm 1816 lúc Trịnh Hoài Ðức
được bốn mươi hai tuổi ("yểm tứ thập dư niên") lúc
ông mới được làm tổng trấn Gia Ðịnh ("ngã hiệp biện
trấn công")
Ông
họ Nguyễn pháp danh là Nguyên Quán, quê làng Long Thành, Gò
Công, xuất gia hồi mười lăm tuổi. Năm 1870, ông học đạo
tại chùa Thiền Lâm với thiền sư Vô Tri. Ba năm sau, ông tới
học với thiền sư trú trì chùa Ân Tôn(132),
rồi tới chùa Trường Thọ, học với thiền sư Tâm Thanh và
ở lại đây sáu năm. Năm 1893, ông lại tới thôn Linh Chiểu
Ðông và học đạo với thiền sư Huệ Lưu trong hai năm. Sau
đó, ông phát tâm trùng tu chùa Long Hoa. Chùa này được dựng
từ đời chúa Nguyễn Phúc Khoát bởi một vị thiền sư tên
là Ông Ðạo Nham, người làng Ðại Hội, tỉnh Quảng Nam,
và đã được vua Gia Long sắc phong(133).
Ông
tên Hứa Mật Sô, người huyện Ðồng Xuân, Tỉnh Phú Yên,
xuất gia ở chùa Bát Nhã trên núi Long Sơn thuộc làng Mỹ
Phú, huyện Ðồng Xuân. Ông tu khổ hạnh ở trong rừng, mặc
áo đan bằng vỏ cây, lấy hai miếng gỗ làm guốc, vượt
núi qua sông một cách dễ dàng.
Năm
1839 vua Minh Mạng nghe tiếng thỉnh về kinh đô, mời ông làm
trú trì chùa Giác Hoàng và ban cho ông biệt hiệu Sơn Nhân
Hòa Thượng. Năm 1842, vua Thiệu Trị lại mời ông làm trú
trì chùa Diệu Ðế. Sau đó, ông xin được phép rút lui về
núi. Không biết ông tịch ở đâu và vào năm nào.
Pháp danh thiền sư Cương Kỷ là Hải Thiệu, ông là đệ tử thiền sư Nhất Ðịnh, được thỉnh chủ trì chùa Từ Hiếu, vân tập tăng chúng, làm cho Từ Hiếu trở thành một vùng thịnh vượng. Ðệ tử xuất sắc nhất của ông là thiền sư Huệ Pháp, chủ trì chùa Thiên Hưng, rất có công trong việc xiểng minh Phật giáo ở thế kỷ thứ hai mươi. Một vị đệ tử lớn khác của ông là thiền sư Viên Giác, người khai sơn chùa Ba La Mật. Ông có phát hai mươi lăm lời đại nguyện, còn được khắc trên bai tháp tại chùa Từ Hiếu. Ông
trú trì chùa Tam Thai tỉnh Quảng Nam, là thầy của thiền sư
Ðạo Diệu.
Trú trì chùa Từ Quang ở núi Ðá Trắng, Sông Cầu, tỉnh Phú Yên, ông là tác giả nhiều sách có giá trị, trong đó có: Sự Nghĩa Luật Yếu Lược, Sự Nghĩa Quy Nguyên, Kinh Báo Ân. Những tác phẩm đó đã từng được khắc bản lưu hành. Khánh Anh viết trong tạp chí Duy Tâm số 5 ra ngày 1.2.1936: "Phẩm Ưu Ba Ly {được ngài} chú giải {một cách} hiển vi ẩn xuất - từ cổ chí kim chắc không ai hiểu nổi {phẩm ấy} nếu không nhờ Ngài chú thích". Thiền sư Diệu Nghiêm pháp danh là Pháp Chuyên, hiệu là Luật Truyền. Năm 1808 Thích Viên Ngộ dựng chùa Lan Nhã và hành đạo tại làng Thanh Ba, Gia Ðịnh. Ông tên là Nguyễn Chất người huyện Phước Lộc, xuất gia năm 1806, đệ tử của hòa thượng chùa Vĩnh Quang, thường phát nguyện thực hành hạnh của Bồ Tát Trì Ðịa, chuyên chặt gai dọn đường, đắp những con đường lầy lội để cho dân chúng qua lại. Trong suốt mười năm, ông chỉ ngồi, không nằm, suốt cả ngày đêm. Năm 1820 bệnh đậu phát ra vùng, ông trì chú tụng kinh và nguyện không ăn cho đến khi bệnh hết hoành hành và dân chúng được bình yên. Năm 1846 ông tuyệt thực và tuyệt thủy trong bốn mươi chín ngày rồi tịch. Ông tạo lập chùa Hưng Long ở làng An Ðiềm, huyện Bình Dương, Gia Ðịnh vào năm 1794. Một người lính trong làng tên Yển đi quyên góp để giúp ông trong việc tạo dựng chùa này. Ðến năm 1803, chùa được thiền sư Chính Niệm trùng tu. Ông tên Ðoàn Thiên Thu, người làng An Truyền quận Phú Vang, Thừa Thiên, pháp hiệu là Từ Minh, xuất thân từ chùa Quốc Ân, sau khi thiền sư Từ Hòa ở Quốc Ân viên tịch, ông được lập làm trú trì chùa Quốc Ân. Ba năm sau, tức là năm 1852, ông từ chức, ra lập một thảo am ở làng Phú Xuân tên là Viên Quang Ðường. Trong số các đệ tử của ông, có hoàng hậu Lệ Thiên, chánh cung của vua Tự Ðức. Am Viên Quang sau này biến thành chùa Linh Quang mà thiền sư Liễu Triệt là vị tổ khai sơn. Ông cũng đã từng kiêm nhiệm chức tăng cương chùa Giác Hoàng. Ông mất năm 1882. Làng An Truyền quê ông là nơi xuất phát cuộc biến động năm 1866 chống lại vua Tự Ðức do ba anh em Ðoàn Trưng, Ðoàn Tư Trực và Ðoàn Hữu Ái cầm đầu(134). Cuộc biến động này sau được gọi là "Giặc Chày Vôi" vì khí giới chống chính quyên là những chiếc chày giã vôi. Ðể những công trình xây cất được kiên cố, người ta lấy vôi, rơm rạ, đường đen và giây tơ hồng trộn lại, bỏ vào cối, và giã nhuyễn ra thành một thức vôi hồ đặc biệt. Vua Tự Ðức tiêu phí không biết bao nhiêu nhân lực và tiền bạc trong việc xây dựng lăng Tự Ðức trong khi dân tình đói khổ, dân chúng oán hận. Vua lại tỏ ra bất lực trong việc ngoại giao, quân sự, để mất thành Gia Ðịnh, tỉnh Ðịnh Tường, Biên Hòa và Vĩnh Long vào tay Pháp. Hậu quả là cuộc nổi loạn nói trên, đêm mồng tám tháng tám âm lịch, quần chúng cách mạng đã cầm chày vôi đập phá tới nội cung, và vua Tự Ðức suýt nữa là bị giết. Nhưng quan chưởng vệ là Hồ Oai đã dập tắt được cuộc nổi loạn, và những người cầm đầu đều bị án tử hình. Trong thời gian họat động bí mật Ðoàn Trưng đã liên kết được một số các chùa như chùa Long Quang và Pháp Vân. Những chùa này đã là nơi hội họp và chất chưa "chày vôi". Vị trú trì chùa Long Quang tên Nguyễn Văn Trí và rất nhiều vị tăng rải rác các chùa ở kinh sư đã bị bắt vì có tội có liên lạc và hợp tác với "giặc". Tăng Ni bị bắt và hoàn tục gần hết. Sự trả thù của vua Tự Ðức cũng nặng nề như một vụ đàn áp lớn. Kinh sư lúc ấy chỉ còn hai mươi bốn ngôi chùa với hai mươi bốn vị tự trưởng mà thôi. Hoàng hậu Lệ Thiên, dưới ảnh hưởng của thiền sư Liễu Triệt, đã khẩn khoản xin tha tội chết cho các tăng ni liên hệ tới cuộc cách mạng. Thiền sư Huyền Khê pháp danh Giác Linh là người Quảng Ðông. Theo Ðại Nam Liệt Truyện Tiền Biên, ông thuộc đời 35 phái Lâm Tế. Thuở nhỏ, ông đánh nhau lỡ tay giết mất một người, nên sau đó ông xin vào chùa xin xuất gia hành đạo. Sau một thời gian tu hành, ông theo đường biển vào tới Ðông Phố, làm một vị du tăng. Sau cùng ông ra Thuận Hóa tu ở chùa Pháp Vân (sau đổi thành chùa Thiên Phước). Giới hạnh thanh tịnh, ông có rất nhiều đệ tử. Nghe nói ông tinh thông võ nghệ, nhiều người tới xin thụ giáo, ông cũng không từ chối. (127)
Một thí dụ trong kinh Pháp Hoa: đứa con mang một viên
bảo châu giá trị trăm ngàn lạng vàng trong tà áo mà không
biết, cho nên cứ mãi sống đời cùng khổ.
(128)
Diễn Nhã Ðạt Ða một buổi sáng soi gương thấy mặt mũi
mình khả ái, chợt trách cái đầu mình lâu nay không thấy
được cái mũi mình. Nghĩ rằng mình không có cái đầu cho
nên không không thấy được mặt, do đó anh ta hoảng hốt
chạy khắp thành phố Thất La Phiệt, phát cuồng.
(129)Thuần
Ðà: người cư sĩ đã dâng Phật bữa ăn cuối cùng trong
đời Ngài. Bữa ăn này có nấm độc. Phật dùng xong bảo
đổ chỗ còn lại, không cho các vị tỳ khưu đi theo dùng
(132)
Chùa Ân Tôn tức là chùa Cây Mai, ở làng Phú Giáo huyện Tân
Long, dựng trên nền một ngôi chùa cổ Thủy Chân Lạp, nằm
trên gò đất cao. Năm 1816 có một tăng sĩ trùng tu chùa ấy
đào được ba miếng vàng lá có khắc hình Ðức Phật cưỡi
lưng voi. Dưới triều Minh Mạng chùa lại được trùng tu,
các ông Nguyễn Tri Phương và Phan Thanh Giản có dựng tại
chùa một nhà thủy tạ có gác cao. Chùa có trồng một cây
mai già bông trắng rất nổi tiếng. Tôn Thọ Tường có làm
bài thơ vịnh cây mai ấy như sau:
Cám
cảnh cây mai cách dưới đèo
Mười
phần trong sạch phận cheo leo
Sương
in tuyết đóng cành thưa thớt
Xuân
tới thu về nỗi quạnh hiu
Lặng
lẽ chuông quen cơn bóng xế
Tò
le kèn lạ mặt trời chiều
Những
tay rượu thánh thưo thần cũ
Trông
cảnh bao nhiêu tiếc bấy nhiêu.
(134)
Cùng với những nhân vật khác như Phạm Lương và Trương
Trọng Hòa, ba anh em họ Ðoàn mưu tính lập một người là
Ðinh Ðạo lên ngôi vua. Nghĩa Ðảng của họ chiêu dụ được
lính tráng đang phục vụ việc xây dựng lăng Tự Ðức và
liên lạc được với quan Hữu quân Tôn Thất Cúc, dùng ông
này làm nội ứng.
|
A An Dưỡng Am An
Lạc Tàng Viện
An
Tâm Quốc Sư
An
Thiền
An
Tử Sơn Trúc Lâm Trần Triều Thiền Tông Bản Hạnh
Ân
Thanh
Ẩn
Không
Ấn
Tông
B
Báo
Nghiêm
Bảo
Từ Hoàng Thái Hậu
Bát Nhã Trực Giải Bất
Quả Thanh
Bất
Tác Bất Thực
Bích Nham Lục Biểu
Lý Thanh
Bình Ðẳng Sám Hối Khoa Văn Bồ
Sơn
C
Chính
Trung Lai
Chính
Trung Thiên
Chính
Vị Tiền
Chân
Lý Ðề Mật
Chân
Nghiêm
Chân
Nguyên
Chân
Nguyên Trạm Tịch
Chiếu
Khoan
Chính
Ðại
Chính
Giác
Chu
Liêm Khê
Chúc
Thánh
Chuyết
Chuyết
Chuyết
Công
Cương
Kỷ
Cứu
Sinh Thượng Sĩ
D Di
Ðà
Diệu
Ðế
Diệu
Giác
Diệu
Nghiêm
Diệu
Thiện
Diệu
Tuệ
Du
Già Khoa Nghi
Dư
Thanh
Ð
Ðà
Ðà
Ðại
Ðăng
Ðại Hương Hải Aán Thi Tập Ðại
Nam Thiền Uyển Truyền Ðăng Tập Lục
Ðại
Sán Hán Oâng
Ðại
Than
Ðại Thánh Ðông Sơn Tuệ Nhãn Từ Giác Quốc Sư Ðại
Thành Toán Pháp
Ðại
Tuệ Ngữ Lục
Ðạo Giáo Nguyên Lưu Ðạo
Thông
Ðạt
Hiên
Ðịnh
Thanh
Ðoàn
Trực
Ðoàn
Trưng
Ðộ
Ðiệp
Ðộng
Sơn Lương Giới
Ðộng
Thanh
G Giác
Hải
Giác
Hoàng
Giác
Lãng
Giác
Ngộ
Giác
Phong
Giác
Vương Nội Viện
H
Hải
Âu
Hải
Hòa
Hải
Lượng
Hải Ngoại Kỷ Sự Hải
Quýnh
Hải
Thiệu
Hải
Thuận
Hàm
Long
Hàm
Long Sơn Chí
Hàn
Dũ
Hạnh
Ðoan Thiền Sư
Hành
Thanh
Hi
Doãn
Hoa
Nghiêm Thạch Ðộng
Hoa
Nghiêm Vân Ðộng
Hoán
Bích
Hộ
Pháp Kim Thang Thư
Hộ
Quốc
Hồng Nghĩa Giác Tư Y Thư Hồng
Phúc
Huệ
Hiền
Huệ
Nguyên
Huệ
Pháp
Huyền
Cơ Thiện Giác
Hưng
Liên
Hưng
Long
Hưng
Thiên Ngự
Hưng
Tín
Hương
Hải
Hưởng
Thanh
K
Kế
Ðăng Lục
Khóa
Hư Lục
Không
Lộ
Không
Thanh
Kiến
Thanh
Kiến Văn Tiểu Lục Kim
Chương
Kim Cương Trực Sớ Kim
Liên
Kim
Tiên
L
Lâm
Tế
Lâm Tế Lục Lân
Giác
Lê
Quý Ðôn
Lịch Triều Hiến Chương Loại Chí Liêm
Khê Viện
Liên
Phái
Liễu
Quán
Liễu
Thông
Liễu
Triệt
Linh
Cơ
Linh
Hựu
Lĩnh
Nam Chích Quái
Long
Biên Thành Thị Ðại Ẩn Sĩ
Long
Ðộng
Lương
Duyên {Lãng Duyên?}
Lương
Thế Vinh
Lưu
Ðộng Thanh
Ly
Lục Ðường
Ly
Lục Ðường Tập
M
Mật
Hoằng
Minh
Châu Hương Hải
Minh
Chính
Minh
Hải Pháp Bảo
Minh
Hải Phật Bảo
Minh
Hành
Minh
Hoàng
Minh
Không
Minh
Lương
Minh
Nam
Minh
Thanh
Minh
Việt Phổ Giác Quảng Tế Ðại Ðức Thiền Sư
N
Nam
Dược Thần Hiệu
Nam
Tông Tự Pháp Ðồ
Ngô
Gia Thế Phả
Ngô
Thì Nhậm
Ngô
Thì Sĩ
Ngộ Ðạo Nhân Duyên Ngộ
Thanh
Ngũ Ðăng Hội Nguyên Ngũ
Giới Quốc Âm
Ngũ
Vị Quân Thần
Nguyên
Thiều
Nguyễn
Công Trứ
Nguyễn
Minh Không
Nguyễn
Phúc Chu
Nguyễn
Phúc Chú
Nguyễn
Phúc Trăn
Nguyệt
Ðường
Nguyệt
Quang
Nhất
Cú Trí Giáo
Nhất
Ðịnh
Như
Hiện
Như
Nguyệt
Như
Như
Như
Sơn
Như
Thị
Như
Trí
Như
Trừng
Niệm
Như Trang
Ninh
Phúc
P
Phan
Huy Chú
Phan
Huy Ích
Phán
Thanh
Pháp Hoa Ðề Cương Pháp
Hóa
Pháp Sự Ðạo Trường Công Văn Cách Thức Phát
Tưởng Thanh
Phân
Dương
Phật Thuyết Dục Tượng Công Ðức Phật
Tích
Phổ
Ðồng
Phổ
Tịnh
Phổ
Tính
Phù
Vân Quốc Sư
Phúc
Thịnh
Phụng
Sơn
Phước
An
Phương
Trượng
Phương
Viên
Q
Quốc
Ân
Quỳnh
Lâm
S
Siêu
Loại
Sơn
Nhân Hòa Thượng
Sơn
Tự
Sùng
Phúc
Sự Lý Dung Thông T
Tam
Bảo Nô
Tam Giáo Thông Khảo Tam
Thai
Tam Tổ Hành Trạng Tàng
Thanh
Tính
Thiên
Tào
Ðộng
Tào
Sơn Bản Tịch
Tăng Già Toái Sự Tăng Thống Thuần Giác Hòa Thượng Tâm Kinh Trực
Giải
Tâm Quảng
Tâm Thể
Tâm Tịnh
Tâm Truyền
Tiêu Sơn
Thạch Liêm
Thạch
Thất Mỵ Ngữ
Thanh Cừ
Thanh Ðàm
Thanh Nguyên
Thanh Nguyên
Hành Tư
Thánh Duyên
Thánh Ðăng Lục Thập Giới
Cô Hồn Quốc Văn Ngữ
Thập Giới
Quốc Âm
Thập Tháp
Thập Tháp
Di Ðà
Thực Diệu
Thích Huệ
Từ
Thích Pháp
Lâm
Thiên Ấn
Thiên Mụ
Thiên
Nam Dư Hạ Tập
Thiên Quang
Thiên Thọ
Thiên Trung
Chính
Thiên Trung
Chí
Thiên Tượng
Thiện Hội
Thiền
Dật
Thiền Ðiển
Thống Yếu Kế Ðăng Lục
Thiền Lâm
Thiền Lâm Thiết Chủy Ngữ Lục Thiền Lâm
Thiền Lâm Thiết Chủy Ngữ Lục Thiền Môn
Khoa Giáo
Thiền Tịch
Phú
Thiền Tĩnh
Viện
Thiền Tông
Thiền Tông Khóa Hư Ngữ Lục Thiền Uyển
Tập Anh
Thông Biện
Thông Giác
Thông Vinh
Thu Thanh
Thủy Lục Chư Khoa Thủy Nguyệt
Thuyết Thanh Thực Hành
Thường Chiếu
Tịch Nhiên
Vô Thanh
Tịch Truyền
Tiêm Bút La
Tiêu Sơn
Tinh Kim
Tịnh Nhân
Tính Quang
Tính Bản
Tính Dược
Tính Hiện
Tính Ngạn
Tính Như
Tính Phái
Tính Quảng
Tính Tĩnh
Tính Tuyền
Tông Diễn
Trình Minh Ðạo
Trình Y Xuyên
Trúc Lâm Ðiều
Ngự
Trúc
Lâm Hậu Lục
Trúc Lâm Tông
Chỉ Nguyên Thanh
Trung Minh
Trùng San Thánh Ðăng Lục Tịnh Tuyển Phật Ðồ Tự Truyền Ðăng
Ngũ Quyển Tân Tự
Trương Hán
Siêu
Trường Thọ
Túc Thanh
Tuệ Ðăng
Tuệ Nhãn
Tuệ Tĩnh
Từ Ðàm
Từ Ðạo Hạnh
Từ Hiếu
Từ Lâm
Từ Vinh
Tử Sầm
Tự
Tính Di Ðà Thuyết
Tường Quang
U
Ứng Chân
Ứng Phó Dư
Biên
V
Vân Phong
Vân Trai
Viên Cảnh
Viên Khoan
Viên Ngộ
Viên Quang
Viên Thông
Viên Văn
Việt
Ðiện U Linh Tập
Việt Quốc
An Tử Sơn Chư Thánh Ðăng Ngữ Lục
Vĩnh Minh Diên
Thọ
Vĩnh Phúc
Vô Thượng
Công
X
Xuân
Thu Quản Kiến
|