|
CHƯƠNG XXI THIỀN SƯ HƯƠNG HẢI
Trong lúc Chân
Nguyên thiền sư đang chủ trì đạo tràng ở Long Ðộng và
Quỳnh Lâm thì tại lưu vực sông Xích Ðằng tỉnh Hưng Yên,
thiền sư Hương Hải cũng đang chủ trì một đạo tràng lớn:
đó là đạo tràng của chùa Nguyệt Ðường. Thiền sư Hương
Hải vốn xuất gia tu học ở Ðàng Trong, nhưng vì có sự hiểu
lầm hớn giữa ông và chúa Nguyễn Phúc Tần nên ông đã lấy
thuyền đi ra Ðàng Ngoài để hành đạo.
Tài
liệu về Hương Hải phần lớn được lấy từ trong sách
Kiến
Văn Tiểu Lục của Lê Quý Ðôn. Hương Hải vốn là người
làng Áng Ðộ huyện Chân Phúc (sau đổi là Chân Lộc rồi
Nghi Lộc) tỉnh Nghệ An. Ông tổ bốn đời của thiền sư
là Trung Lộc Hầu đã theo Doãn Quốc Công Nguyễn Hoàng vào
trấn thủ miền Nam từ giữa thế kỷ thứ mười sáu. Hương
Hải sinh năm 1627(*);
ông vốn là người thông minh, năm mười tám tuổi đã đậu
cử nhân và được tuyển vào làm trong phủ chúa Nguyễn. Sau
đó ông được bổ đi làm tri phủ Triệu Phong, Quảng Trị.
Năm hai mưoi lăm tuổi ông được làm quen với một vị thiền
sư Trung Hoa tên là Viên Cảnh lúc bấy giờ đang hành đạo
tại Quảng Trị, và bắt đầu để thì giờ học hỏi về
đạo Phật với thiền sư này. Ba năm sau, tức là năm 1655,
ông từ quan xuất gia với Viên Cảnh, được thiền sư này
đạt cho pháp danh là Huyền Cơ Thiện Giác, pháp tự là Minh
Châu Hương Hải. Hương Hải còn được học Phật với một
vị du tăng Trung Hoa khác tên là Ðại Thâm Viên Khoan.
Sau
đó ông lấy thuyền ra đảo Tiêm Bút La (tức là cù lao Ðại
Lãnh) ở biển Nam Hải, cắt tranh chặt tre làm một cái am
ba gian để tu thiền. Ông ở đây được tám tháng; sau đó
vì có những chướng ngại địa phương nên ông bỏ Tiêm Bút
La; trở vào lục địa, về quê cũ là làng Bình An Thượng,
phủ Thăng Hoa, định cất am tu ở đây. Nhưng dân chúng ở
đảo Tiêm Bút La đã phái người đi tìm ông, thỉnh ông trở
về đảo. Hương hải và các đệ tử lại trở ra đảo, và
trụ trì ở đây được tám năm, đạo hạnh được nghe biết
khắp nơi. Quan trấn thủ Thuần quận công thỉnh ông về đất
liền để tụng kinh cầu an cho phu nhân và để cho cả gia
đình được quy y. Lễ quy y xong ông lại trở ra đảo. Năm
1665, quan tổng thái giám Hoa Lễ Hầu lại cho thuyền ra thỉnh
ông về đất liền để làm đàn tràng sám hối, cầu cho hết
bệnh lao mà ông mắc phải trong ba năm. Chúa Nguyễn Phúc Tần
nghe tiếng Hương Hải liền cho người đi đón. Lúc ông đến
phủ, chúa ra đón vào, hỏi thăm, úy lạo rồi truyền lập
một thiền viện trên núi Quy Kính để ông ở, tên là Thiền
Tĩnh Viện. Quốc Thái phu nhân và ba công tử là Phúc Mỹ,
Hiệp Ðức và Phúc Tộ đều đến quy y học đạo với ông.
Các quan trong triều, nhân dân các tỉnh và những người trong
quân ngũ đến xin quy y rất đông cả thảy hơn 1.300 người.
Thiền Tĩnh Viện trở nên một trung tâm Phật Giáo nổi tiếng
ở Ðàng Trong.
Trong
số những người đến quy y học Phật tại Thiền Tĩnh Viện
có quan thị nội giám Gia quận công. Ông này vố là người
Ðàng Ngoài, theo quân Trịnh vào Nam bị chúa Nguyễn Phúc Tần
bắt, nhưng được chúa tha cho và cho vào dạy học trong phủ
chúa. Ông đến Thiền Tĩnh Viện rất đều để nghe thuyết
pháp. Có người ghét ông mới vu cáo cho ông là đang cùng thiền
sư Hương Hải âm mưu trốn về Bắc. Chúa Nguyễn Phúc Tần
nghi ngờ liền đem Hương Hải ra tra khảo, nhưng tra khảo không
ra. Chúa bèn đưa ông vào Quảng Nam, cách Thuận Hóa ba ngày
đường.
Vì
sự đối đãi ấy của chúa Nguyễn, thiền sư Hương Hải
mới quyết định ra Bắc thực. Năm 1682, ông chuẩn bị một
chiếc thuyền cùng năm người đệ tử vượt bể ra Bắc.
Thuyền ông ghé bến, ông đến trình diện ở đồn Trấn Lao
với Yên quận công Trịnh Gia(*).
Yên quận công báo về triều. Chúa Trịnh (có lẽ là Trịnh
Căn mới lên thay Trịnh Tạc) cho Ðường quận công mang thuyền
vào đón hết thầy trò về kinh sư. Ðiều tra lý lịch của
Hương Hải xong, Chúa Trịnh cho thầy trò ông tạm ở dinh trấn
thủ Sơn Tây tám tháng, rồi đưa ông về dinh trấn thủ Sơn
Nam. Chúa sai quan trấn thủ Sơn Nam lấy ba mẫu đất làm chùa
cho Hương Hải. Ðó là vào năm 1683, lúc ông đã được năm
mươi sáu tuổi.
Những
năm sống gió đã tôi qua, bây giờ có chỗ ở yên mới, Hương
Hải mới nỗ lực tọa thiền. Suốt mười bảy năm ông chuyên
tu và sáng tác. Ông chú giải các kinh, dịch và sáng tác bằng
tiếng Nôm hơn ba mươi tác phẩm truyền cho đời(65).
Nhiều tác phẩm của ông chưa tìm lại được. Trong số những
tác phẩm của ông, có những đề mục sau đầy:
-
Giải Pháp Hoa Kinh
- Giải Kim Cương Kinh Lý Nghĩa - Giải Sa Di Giới Luật - Giải Phật Tổ Tam Kinh - Giải A Di Ðà Kinh - Giải Vô Lượng Thọ Kinh - Giải Ðịa Tạng Kinh - Giải Tâm Kinh Ðại Ðiên - Giải Tâm Kinh Ngũ Chỉ - Giải Chân Tâm Trực Thuyết - Giải Pháp Bảo Ðàn Kinh - Quán Vô Lượng Thọ Kinh Quốc Ngữ - Phổ Khuyến Tu Hành - Bảng Ðiều Nhất thiên - Cơ duyên Vấn Ðáp Tịnh Giải - Sự Lý Dung Thông, thơ Một số thơ kệ và thiền ngữ của ông được ghi lại trong chương Thiền Dật của sách Kiến Văn Tiểu Lục. Năm 1700. Thiền sư Hương Hải rời chùa trấn thủ Sơn Nam về mở đạo tràng ở chùa Nguyệt Ðường, tổng An Tảo, huyện Kim Ðộng, phủ Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên. Người bốn phương đi về cầu đạo không ngớt. Vua Lê Dụ Tông có lần đón ông về kinh, vời vào nội điện để lập đàn cầu tự và thuyết pháp. Vua rất tôn kính ông, thường hỏi ông về phương pháp tu đạo. Năm 1714, chúa Trịnh Căn(*) có vào chùa Nguyệt Ðường và cúng dường. Chúa có ngự đề bài thơ sau đây tại chùa Nguyệt Ðường: Danh lam từng trải đã hay danh Trình độ này âu hợp chốn trình Pháp giứoi chăm chăm tuyên diệu pháp Kinh lâu rờ rỡ diễn chân kinh Công nhiều nhà có công vô lượng Thế thuận vây lên thế hữu tình Ngán tục chẳng hề mùi tục lụy Lòng
thiền tu cẩn chốn thiền quynh(66)
Ðệ tử xuất gia đắc pháp với Hương Hải rất đông. Thượng túc đệ tử là thiền sư Viên Thông, pháp tự là Chân Lý Ðề Mật. Những người đệ tử cùng mang pháp tự có chữ Chân đứng đầu như Chân Lý Ðề Mật có cả thảy là ba mươi người, có người được phong chức Tăng Thống, Ðó là những pháp tử của ông. Còn những đệ tử thuộc hàng cháu, pháp điệt, mang pháp tự có chữ tính thì không kể xiết. Năm Ất mùi (1715), sáng ngày 13 tháng 5, sau khi tắm, thiền sư Hương Hải khoác y, đội mũ, đeo tràng hạt, ngồi kiết già, mà tịch, thọ 88 tuổi(*): Thiền sư Phương Trượng xây bảo tháp ba từng để thờ ông. Năm 1724, chúa Trịnh Cương truyền mở rộng phạm vi chùa Nguyệt Ðường vì cơ sở hành đạo này đã trở nên chật hẹp. Lúc bấy giờ thiền sư Như Nguyệt, pháp tử của Hương Hải, đứng ra chủ trương sự xây cất, Chúa Trịnh Cương cho đo đất xung quanh chùa, thêm vào hơn năm mươi mẫu. Công tác xây dựng kéo dài trong nhiều năm mới hoàn tất.
Hương
Hải có căn bản Nho học trước khi xuất gia, vì vậy ông
vẫn thường nói đến Nho giáo như là một nền học bổ túc
được cho Phật Giáo về phương diện trị thế:
Lên
tận nguồn Nho trông bát ngát
Vào
sâu biển pháp thấy mênh mông
(Nho
nguyên đãng đãng đăng di khoát
Pháp
hải trùng trùng nhập chuyển thâm)
Ông
ra đời năm mười tám tuổi, xuất gia năm hai mươi tám tuổi
mà mãi đến năm năm mươi sáu tuổi mới có chỗ yên thân
để thực hiện sự tu tập. Chính từ năm 1683 đời ông mới
hết sóng gió, và ông rất biết ơn đất Ðàng Ngoài đã cho
ông khung cảnh thanh tịnh để tu học:
Sư
tử nằm hang sư tử
Cây
trầm mọc trong rừng trầm
Một
thân nhờ có càn khôn rộng
Ngày
dài tháng rộng đã an tâm.
(Sư
tử quật trung sư tử
Chiên
đàn lâm lý chiên đàn
Nhất
thân hữu lại càn khôn khoát
Vạn
sự vô ưu nhật nguyệt trường)
Tuy vậy, ông
vẫn có khi nhớ nhà, nhớ làng, nhớ nơi mình sinh trưởng
và lứon lên, nghĩ rằng nhiều kẻ đã không hiểu được
sự ra đi của mình:
Là
thị là phi ai có biết
Rằng
xuôi rằng ngược lẽ trời hay
Tưởng
nhạc người Hồ mười tám giây.
(Hoặc
thị hoặc phi nhân mạc thức
Thuận
hành nghịch hành thiên mạc trắc
Mãn
sơn nhân xướng Chá cô từ
Thác
nhận Hồ gia thập bát phách)
Bỏ
Ðàng Trong ra Ðàng Ngoài lại còn bị chúa Trịnh bắt vẽ
địa hình sông núi Thuận Quảng, Hương Hải nghĩ rằng sẽ
có một số người chê trách. Ông cho rằng người quân tử
có thể hiểu mình còn kẻ tiểu nhân có thể không hiểu mình.
Người ta không hiểu mình, càng chê bai công kích mình thì
đức độ mình càng thêm dày. Ông viết trong Sự Lý Dung
Thông:
Cao
nhân chi có nỡ hiềm
Thanh
trần hủy sự càng thêm đức dày.
Tuy
vậy, niềm vui của sự bình an vẫn lớn. Ông cho sự trở
về Ðàng Ngoài của ông với các đệ tử như là một cuộc
đoàn viên:
Bể
lầu lầu trời thanh nguyệt sáng
Hội
muôn thiêng một áng đoàn viên
Tỏ
lòng Ðộng độ, tây thiên
Gần
xa đầm ấm, hương thiền nức xông.
(Sự
Lý Dung Thông)
và
khi mùa xuân đầu tiên ở đất Bắc về, ông đã không ngần
ngại ca tụng cảnh thịnh trị ở Ðàng Ngoài(68).
Thơ
ngâm vịnh và thù tạc của thiền sư Hương Hải với các
nhà chính trị không phải là phần xuất sắc trong sáng tác
của ông. Có lẽ lòng của thiền sư không mấy thiết tha đến
những chuyên ngâm vịnh thù tác ấy. Ông đi tu vì đã chán
cảnh quan quyền, cho nên đi lại với quan quyền là chuyện
bất đắc dĩ. Thời gian ông đi tu là thời gian mà nhiều chuyện
lộn xộn bạo động xấu xa xẩy ra trong phủ chúa Nguyễn.
Phu nhân của vị trấn thủ Quảng Nam Nguyễn Phúc Kỳ là Tống
thị, sau khi chồng mất, đã đem nhan sắc mê hoặc hai người
em chồng là chúa Nguyễn Phúc Lan và chưỏng cơ Nguyễn Phúc
Trung. Tống thị lợi dụng thế lực chúa, bóc lột dân đem
về làm của riêng, tích trữ tiền của như núi, làm các bậc
công khanh đều tức giận. Chúa lại hay giận dữ, hiếu sát;
từng sai chém nhiều người bỏ thây giữa chợ, không cho tra
hỏi; kẻ chết oan rất nhiều. chưởng cơ Nguyễn Phúc Trung
sau khi chúa Nguyễn Phúc Lan chết, lại nghe lời Tống thị
âm mưu đảo chính, giết chúa Nguyễn Phúc Tần. Cơ mưu bị
vỡ lở, biếùt bao người bị liên lụy. Tình trạng đó đã
ăn sâu vào trí óc của viên tri phủ trẻ tuổi; thêm vào đó
sự nghi kỵ và đối xử tệ bạc của chúa Nguyễn Phúc Tấn
đối với vị cao tăng mà trong triều, ngoài nội, thiên hạ
từng tới quy y hàng ngàn người, đã khiến cho Hương Hải
mất hẳn tình cảm với chế độ Ðàng Trong.
Những
thi kệ và thiền ngữ được ghi chép trong sách Kiến Văn
Tiẻu Lục chứng tỏ vào giai đoạn từ 56 tuổi trở về
sau, kiến thức và sự tu chứng của thiền sư Hương Hải
đã đi tới một trình độ khá sâu sắc. Tuy nhiên ta phải
cẩn thận khi xem xét những thi kệ và thiền ngữ này. Ít
nhất là hai bài thơ đã chép trong Kiến Văn Tiểu Lục
không phải là của Hương Hải. Tắc giả bài:
Khô
mộc nham tiền sai lộ đa
Hành
niên đáo thử tận sa đà
Lộ
uyên lập tuyết phi đồng sắc
Minh
nguyệt lô hoa bất tự tha
Liễu
liễu liễu thời vô sở liẽu
Huyền huyền huyền xứ diệc tu đa Ân cần vị xướng huyền trung khúc Không lý thiềm quan yết đắc ma? không
khải là Hương Hải mà là thiền sư Trung Hoa Thanh Nguyên Hành
Tư (660-740). Ðó là một trong mười bài Thập Huền Luận,
gọi là Chính vị Tiền. Còn bài
Cô viên khiếu lạc thiên nham nguyệt Dã khách ngâm tàn ngũ dạ đăng Thử cảnh thử thời thùy hội đắc? Bạch vân thâm xứ tọa thiền tăng! là của thiền sư Vĩnh Minh Diên Thọ (904-975) cũng người Trung Hoa, làm trong thời gian ở núi Tuyết Ðậu. Lại còn hai bài thơ khác cũng thấy chép trong sách Kế Ðăng Lục vốn được trước tác trước Kiến Văn Tiểu Lục mấy chục năm. Bài thứ nhất được Như Sơn đưa vào, cho là bài kệ truyền pháp của Minh Lương trao cho Chân Nguyên: Mỹ ngọc tàng ngoan thạch Liên hoa xuất ư nê Tu tri sinh tử xứ Ngộ thị tức Bồ đề Bài thứ hai cũng nước Như Sơn đưa vào Kế Ðăng Lục, cho là bài kệ truyền pháp của Chuyết Chuyết trao cho Minh Lương: Sấu trúc trường tùng trích thúy hương Lưu phong sơ nguyệt độ vi lương Bất tri thùy trụ hư danh tự Mỗi nhật chung thanh tống tịch dương(69) Tuy Kế Ðăng Lục ra đời trước Kiến Văn Tiểu Lục, ta cũng nên nêu nghi vấn ở đây, bởi vì giá trị sử học của Kế Ðăng Lục, như ta đã biết, không được bảo đảm cho lắm(*). Thiền sư Hương Hải ít ưa lý luận về triết học. Ông chuyên hết tâm ý vào việc thiền quán và vào những phương pháp điều tâm ý vào việc thiền quán và vào những phương pháp điều tâm, quán tâm, giải thoát cho tâm. Căn bản của những phương pháp của ông là những nhận thức về liên hệ giữa Phật và chúng sinh, giữa tâm và cảnh, mê và ngộ, thiện và ác. Liên hệ giữa Phật và chúng sinhPhật
và chúng sinh cùng có chung một thể tính, giác ngộ thì chứng
nhập được thể tính ấy. Nếu Phật để bỏ chúng sinh thì
không bao giờ có thể đạt đạo. Ông nói: "Khi mặt trời
lên chiếu sáng thiên hạ, thì hư không không vì đó mà sáng;
khi mặt trời lặn, bóng tối bao trùm khắp thiên hạ thì hư
không không vì đó mà tối. Sự sáng và sự tối tranh cướp
lẫn nhau, còn hư không thì vẫn lặng lẽ tự nó là nó. Tâm
Phật và chúng sinh cũng vậy. Nếu quan niệm Phật là thanh
tịnh quang minh, quan niệm chúng sinh là dơ bẩn mờ tối, thì
có tu qua nhiều kiếp như cát sông Hằng cũng không đạt được
giác ngộ".
Liên hệ giữa mê và ngộNhận
thưc về Phật và chúng sinh đưa đến nhận thức sau đây
về mê và ngộ cùng có chung thể tính. Ông nói: "Mê và ngộ
dựa vào nhau. Chân và vọng vì đối đãi với nhau mà có.
Nếu tìm chân mà bỏ vọng thì không khác gì người sợ bóng
theo hình mà cứ chạy ở ngoài nắng. Nếu biết rõ vọng là
chân thì cũng như đi vào nơi rợp, tự khắc bóng biến mất".
Liên hệ giữa tâm và cảnhTâm
và cảnh cũng cùng chung một thể tính. Ðối tượng của nhận
thức và chủ thể của nhận thức nương nhau mà hiện hữu.
Khi ta đang thấy một cái hoa chẳng hạn, thì nhờ đối tượng
là cái hoa mà ta biết rằng chủ thể (cái thấy) cũng đang
hiện hữu:
Thây
vật liền thấy tâm
Không
vật tâm không hiện.
(Kiến
vật tiện kiến tâm
Vô
vật tâm bất hiện)
Bởi
thế cho nên thượng sách là trở về chân tâm, vốn là cơ
bản của cả tâm lẫn cảnh:
Thấy
theo sắc mà hết
Nghe
theo tiếng mà bay
Trở
về là thượng sách
Hôm
qua và sáng nay
(Nhãn
quang tùy sắc tận
Nhĩ
thức trục thanh tiêu
Hoàn
nguyên đương biệt chỉ
Tạc
nhật dữ kim triêu)
Liên hệ giữa
thiện và ác:
Thiện
từ tâm sinh ra
Ác
cũng từ tâm khởi
Thiện
ác vốn không thực
Chỉ
có nơi tâm ta
Bỏ
ác, đem vứt đâu?
Chứa
thiện cất nơi nào?
(Thiện
ký tòng tâm sinh
Ác
khởi ly tâm hữu?
Thiện
ác thị ngã duyên
Ư
tâm thực bất hữu
Xả
ác tòng hà khứ?
Thủ
thiện, kim thùy thủ)
Trên căn bản
những nhận thức trên, Hương Hải đề nghị phương pháp
sau đây:
1.
Không chạy trốn sự vật. Ðối tượng của giác quan như
âm thanh, hình sắc, hương vị v.v... sở dĩ áp đảo được
tâm ta vì tâm ta chưa quán sát và thấu đạt được bản chất
của tâm cũng như của những đối tượng ấy, Cầu sự an
tâm bằng cách chạy trốn sự vật tức là thú nhận sự bất
lực của mình. Bản chất của tâm cũng như của sự vật
là chân tâm - nghĩa là thực tại không sinh diệt, mà văn học
Bát nhã gọi là không. Nếu tâm đã trở về chân tâm
thì cảnh cũng trở về chân cảnh: không cần có sự chạy
trốn mà giải thoát trở thành hiện thực. Hương Hải viết:
"Phàm người ta phần nhiều vì sự cho nên làm ngăn
chặn lý, vì cảnh mà ngăn chặn tâm, muốn
trốn chạy cảnh để tìm sự an tâm, quên sự giữ lý, mà
không biết rằng chính tâm của họ ngăn chặn cảnh, lý của
họ ngăn cản sự. Nếu họ biết làm cho tâm không thì tự
nhiên cảnh cũng không, làm cho lý lặng thì tự nhiên sự cũng
lặng, cảnh không còn khống chế được tự tâm nữa". Ðể
nêu rõ nguyên tắc không trốn chạy sự vật và không
bỏ phàm theo thánh, không bỏ mê theo ngộ, thiền sư Hương
Hải đã viết bài thơ sau đây:
Thân
vọng tới gương soi bóng
Bóng
với thân vọng giống nhau
Chỉ
muốn giữ thân bỏ bóng
Vọng
thân vốn có thực đâu
Thân
kia với bóng đồng nhất
Một
không một có được nào?
Kẻ
muốn giữ một bỏ một
Cách
xa sự thật biết bao!
Người
nào ưa thánh ghét phàm
Sẽ
mãi sinh tử phiền não
Phiền
não vì tâm mà có
Vô
tâm phiền não ở đâu?
Hễ
đừng phân biệt cháp tướng
Ðương
nhiên chứng được đạo mầu
(Vọng
thân lâm kính chiếu ảnh
Ảnh
dữ vọng thân bất thù
Ðãn
dục khử ảnh lưu vọng
Bất
tri thân tự bổn hư
Thân
bổn dữ ảnh bất dị
Bất
đắc nhất hữu nhất vô
Nhược
dục tồn nhất xả nhất
Vĩnh
dữ chân lý tương sơ
Cánh
nhược ái thánh tăng phàm
Sinh
tử hải lý trầm phù
Phiền
não nhân tâm cố hữu
Vô
tâm phiền não hà cư?
Bất
lao phân biệt thủ tướng
Tự
nhiên đắc đạo tu du).
"Vô
tâm phiền não hà cư"! Nếu giữ được trạng thái "vô
tâm" thì phiền não không còn chỗ để nương tựa. "Vô
tâm", theo Hương Hải là bí quyết của sự giác ngộ.
2.
Giới luật cao nhất là sự vô tâm. Giới luật không phải
là sự cấm đoán không cho con người tiếp xúc với sự vật.
Nếu giới luật chỉ là sự cấm đoán ấy thì đó chưa phải
là phương thuốc căn bản mà có là một sự trốn chạy. Giới
luật cao nhất là sự quan sát thường trực để có thể ở
trong thanh sắc mà thanh sắc vẫn phải phục tòng theo mình:
"Biết rằng khi mê thì người theo cảnh, cảnh thiên sai vạn
biệt và người thì không phải là đồng nhất với mình;
khi ngộ thì cảnh đi theo người, người đã nhất trí dung
hóa được vạn cảnh". Ông lại nói:
"Giới
luật của tự tính là giữ thái độ vô tâm đối với vạn
pháp
Trí
tuệ của tự tính là giữ thái độ vô ngại đối với vạn
pháp,
{Tâm
ta vững chãi} không thêm không bớt, như kim cương,
{Tâm
ta tuy có} đi tới đi lui, cũng vẫn an trú trong định".
(Nhất
thiết vô tâm tự tính giới
Nhất
thiết vô ngại tự tính tuệ
Bất
tăng bất giảm tự kim cương
Thân
khứ thân lai bản tam muội)
3.
Thành Phật ngay trong giờ phút này. "Vô tâm" không phải
là sự hờ hững thiếu chú ý. Vô tâm là cái thấy sáng suốt,
không mắc kẹt bởi tư kiến và tư dục, không kỳ thị phân
biệt; cái thấy không còn bị khuynh hướng nhị nguyên điều
khiển. Ðối với cái thấy ấy thì không còn có sự phân
biệt chủ thể và đối tượng, tâm và cảnh, mê và ngộ,
có và không. Mở mắt mà nhìn thực tại với cái tâm "vô
tâm" ấy thì giây phút nào cũng là giây phút giác ngộ nơi
nào cũng là Phật. ‘Khi sự phân biệt chủ thể đối tượng
đã chấm dứt, và chính ý niệm chấm dứt ấy cũng chấm
dứt nữa, thì trí tuệ có mặt; tâm niệm nào cũng là Phật,
không có tâm niệm nào không phải là Phật, ở đâu cũng thành
đạo, không có cõi nào mà không là cõi Phật" Muốn thực
hiện được trí tuệ Bát nhã kia, phương pháp hữu hiệu nhất
là sống cuộc sống hàng ngày với sự thức tỉnh:
"Trong đời
sống hàng ngày không có gì không phải là đạo, hễ tâm an
thì đó là thiền"
(Nhật
dụng vô phi đạo
Tâm
an tức thị thiền)
Thì
ra phương pháp của Hương Hải đề nghị không có gì là rắc
rối khó hiểu. Hồi ông được vua Lê Dụ Tông mời vào cung,
vua hỏi ông: "Trẫm nghe lão sư học rộng nhớ nhiều, xin
thuyết cho trẫm được giác ngộ rành rõ". Ông không thuyết
pháp dài dòng, chỉ xin vua nhớ cho một bài kệ. Bài kệ này
có thể tóm tắt được phương pháp của Hương Hải:
Mỗi
giây phút trở về nghe ngóng tâm ta
Quan
sát và tư duy cho cặn kẽ
Không
cần đi tìm tri thức trong mộng
Sau
này sẽ thấy mặt Phật trên mặt mình
(Phản
văn tự kỷ mỗi thường quan
Thẩm
sát tư duy tử tế khan
Mạc
giáo mộng trung tầm trí thức
Tương
lai diện thượng đỗ sư nhan)
Mục
đích của sự tu học là giải thoát. Ðức Quan Thế Âm nhờ
quan sát ngoại giới, soi thấu bản chất của ngũ uẩn mà
đạt được tự do, cho nên được gọi là Quán Tự tại.
Hương
Hải hường khích lệ các đệ tử thực hành theo bài kệ
sau đây mà ông rất ưa nhắc lại:
Hãy tự do trong sự thấy, nghe, hay, biết; Trong
khi tiếp xúc với sắc, thanh, hương, vị, xúc,
Hãy
an trú nơi chính niệm
Như
chim trên trời chỉ tự bay
Không
lấy, không bỏ, không ưa, không ghét,
Nên
giữ thái độ vô tâm trong mọi trường hợp
Thì
mới có thể gọi là Quán Tự Tại.
"Vô
tâm" là danh từ và phương châm rất đắc ý của Hương
Hải. Hình ảnh đẹp nhất về vô tâm là hình ảnh mà ông
đã trình bày cho vua Dụ Tông nghe, khi nhà vua hỏi về thâm
ý của đạo Phật:
Nhạn
bay ngang trời
Bóng
chim đầm lạnh
Nhạn
không có ý để lại dấu tích
Nước
không có ý lưu bóng hình
(Nhạn
quá trường không
Ảnh
trầm hàn thủy
Nhạn
vô di tích chi ý
Thủy
vô lưu ảnh chi tâm)
Ðể
có ý niệm về thơ Nôm của Hương Hải, ta hãy đọc một
đoạn trong Sự Lý Dung Thông:
Những
thánh hiền nguồn nhân biển quả
Xưa
tu hành trí đã rộng cao
Trong
nơi ba cõi ra vào
Mười
phương tri thức ai vào khá nghi
Nguyện
in thanh hải tịnh trì
Thềm
lan bóng trúc hề tri viên ngần
Phên
dày nước chảy khôn ngăn
Mây
ruổi ngoài trần há động non cao
Sự
nài bao hang sâu tiếng dội
Ðèn
hãy dùng chớ nỗi chờ trăng
Ðường
lên diệu lộ cao thăng
Giải,
Hành hai chữ há rằng làm sai.
Ðòi
phen giải thoát tự nhiên
Dụng
như chân trí, gương thiền ráng thâu
Lộc
dương theo dấu hay đâu.
Bao
nhiêu chim bay về lạc tổ
{...}
Ðạo
viên minh ngại chi chân tục
Năm
mươi lăm phẩm dưới trên
Luyện
Tam Muội hỏa chí bền Kim Cương
Nhân
thiên mấy đấng phóng quang
Tam
hiền thập thánh một đàng cao siêu
Cày
mây, cuốc nguyệt đã nhiều
Học
sinh Hương Hải thường được gọi là Tổ Cầu. Ðạo
tràng của ông sáng lập và chủ trì cuối thế kỷ thứ mười
bảy và đầu thế kỷ thứ mười tám đã trở thành một
tùng lâm lớn, một thiền phái lớn mà pháp đăng còn truyền
lại mãi cho tới ngày nay.
(*)Kiến
văn tiểu lục cho biết năm Giáp ngọ (1714) niên hiệu Vĩnh
Thịnh, Hương Hải thiền sư 87 tuổi. Theo cách tính tuổi ta
thì ông phải sinh năm Mậu thìn (1628) niên hiệu Vĩnh Tộ thứ
mười đời Lê Thần Tông (N.H.C)
(*)Hương
Hải thiền sư ngữ lục (VHv. 2379) và Ðại Việt sử
ký tục biên (bản dịch của Ngô Thế Long và Nguyễn Kim
hưng, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1991) đều ghi tên là
Trịnh Liễu. Còn Việt sử thông giám cương mục
là
Trịnh Ðiềm, và Kiến văn tiểu lục là Trịnh Na (N.H.C.)
(65)
Theo Kiến Văn Tỉeu Lục. Theo Thích Trí Hiếu, thì số
tác phẩm của Hương Hải là hai mươi cuốn (Ðuốc Tuệ,
số
7, ra ngày 21.1.1936, Hà Nội).
(*)
Thực ra, Trịnh Căn đã chết từ năm 1709. Vì thế người
đến thăm chùa Nguyệt Ðường phải là Trịnh Cương, lên
nắm phủ Chúa trong những năm 1709-1729 (N.H.C)
(66)
Bài thơ do Thiền sư Thích Trí Hiếu, trú trì chùa Xích Ðằng
Nguyệt Ðường cho đăng trong Ðuốc Tuệ số 7, ra ngày
21.1.1936, Hà Nội).
(*)
Theo Kiến văn tiểu lục, Hương Hải Thiền sư chết
ngày 12 tháng năm năm Ất mùi (1715) (N.H.C).
(67)Chá
Cô Khúc là một điệu hát vui giọng Nam ở Cổ Nhạc Phủ,
khiến người miền Nam ở đất khách mỗi khi nghi lòng nhớ
nhà. Thơ Hoàng Dĩnh Kiên có câu:
Trong
nhà có khách Giang Nam viếng
Ðừng
hát Chá Cô theo gió xuân.
(Tọa
thượng nhược hữu Giang Nam Khách
Mạc
hướng xuân phong xướng Chá cô)
(68)
Thích Trí Hiếu có cho in trong tập san Ðuốc Tuệ số
7, ra ngày 21.1.1936, hai bài thơ của Hương Hải, một bài ngâm
vịnh cảnh xuân, một bài đề tặng quan trấn thủ Sơn Tây.
Sau đây là hai bài ấy, không thấy chép trong Kiến Văn Tiểu
Lục:
1.
Tam dương khai thái chuyển hồng quân
Cửu
thập thiều quang sắc sắc tân
Dạ
tính thanh phong chiêu ngọc lộ
Nhật
tình thụy khí ái từ vân
Sơn
cao lâm thụ hy kỳ mỹ
Bình
địa viên hoa phức úc huân
Xứ
xứ nghênh trường ca vạn thọ
Nhân
nhân hòa mục vĩnh thiên xuân.
2. Hướng minh quy mệnh sự quân vương Yết kiến tôn công khánh thọ đường Tài dụng kinh luân kim đức hạnh Ân thi lễ nghĩa quý văn chương Ngoại trừ đạo tặc bình dân ái Nội dưỡng chinh liêm sĩ tốt cường. Quyền trấn Nam giao danh tứ hải. Khuông phù quốc chính lạc quần phương. (69)
Trong Kế Ðăng Lục câu đầu là: "Sấu trúc trường
tùng trích thúy hương", câu ba là: "Bất tri thùy trú Nguyên
Tây tự".
(*)
Theo Lê Mạnh Thát trong vài Về tác giả bài thơ "Xuân
Nhật tức sự". Tạp chí văn học, số 1-1984, thì "trong
số 40 bài thơ do Lê Quý Ðôn chép lại trong Kiến Văn Tiểu
Lục nói là của thiền sư Hương Hải, có đén 32 bài là
của tác giả Trung Quốc đời Tống mà ta có thể tìm lại
trong các sách Trung Quốc hiện còn" (N.H.C.)
(70)Như
Lai Tạng là nền tảng mầu nhiệm của mọi hiện hữu.
(71)
Năm thứ tâm hương để cúng đường Phật: giới, định,
tuệ, giải thoát, giải thoát tri kiến.
(72)Nê
ngưu: Trâu làm bằng đất bùn. Trâu đất bùn đi vào biển
không để lại dấu vết.
(73)
Nhắc câu "niêm" dau đây của Trần Thái Tông:
Một
đám bạch vân qua trước động
Bao
nhiêu chim chóc lẩn đường về
(Nhất
phiến bạch vân hoành cốc khẩu
Ký
đa quy điểu tận mê sào)
(74)Lòng
rồi tức là lòng rỗi, sự thảnh thơi không bị bó buộc
của tâm hồn.
(75)
Danh hiệu của Phật
|