Người Cư Sĩ          [ Trở Về         [Trang chủ]
QUAN ĐIỂM PHẬT GIÁO VỀ NỮ GIỚI –
SO SÁNH LUẬT TỲ KHEO VÀ TỲ KHEO NI DỰA TRÊN GIỚI BỔN TIẾNG HOA
Nguyên tác: Tỳ-kheo-ni In Young Chung
Thích nữ Liên Hiếu dịch

TÓM TẮT

*******

Nhìn chung, trong Phật giáo Ni giới bị ép buộc phải giữ hơn chư Tăng 100 giới và còn tuân thủ theo Bát Kính Pháp. Một số học giả, nhà nghiên cứu và hành giả khẳng định rằng các giới trong Giới Bổn (S. Prātimokṣa, P. Pāṭimokkha) đặt vị trí của Tỳ-kheo-ni thấp hơn Tỳ-kheo. Tuy nhiên, tôi cho rằng các giới Ba-la-di (S. & P. pārājika) thêm vào cho Tỳ-kheo-ni có liên hệ đến ái dục nghiêm khắc hơn Tỳ-kheo vì phụ nữ có khả năng sinh sản. Một số giới Tăng-già-bà-thi-sa (S. Saṃghāvaśesa, P. Saṅghādisesa) của Tỳ-kheo-ni với mục đích giúp cho Tỳ-kheo-ni thoát khỏi cạm bẫy của những người đàn ông có tính tham dục. Các giới thuộc tụ Ni-tát-kỳ-ba-dật-đề (S. Niḥsargika-pāyantika; P. Nissaggīya-pācittiya) của Tỳ-kheo nghiêm cấm họ không được lạm dụng Tỳ-kheo-ni. Hai giới Bất Ðịnh (S. & P. Aniyata) của Tỳ-kheo cho chúng ta thấy dấu hiệu đức Phật tin tưởng vào phụ nữ. Hơn nữa, Bảy Pháp Diệt Tránh (S. Adhikaraṇaśamatha; P. Adhikaraṇasamatha) là minh chứng về quan điểm bình đẳng nam nữ. Nhiều giới Ba-dật-đề (S. Pāyantika; P. Pācittiya) được thêm vào cho Tỳ-kheo-ni là do các điều kiện và hoàn cảnh sống của chư Ni ở thời Ấn Độ cổ đại. Sau cùng, cách xử trị của cùng một tội giữa các giới Ba-dật-đề và Bát Kính Pháp hoàn toàn khác nhau và nhiều điểm không nhất quán, điều đó cho chúng ta thấy Bát Kính Pháp là phần thêm vào sau này.

GIỚI THIỆU

Dưới đây là mười nguyên nhân mà Tăng đoàn phải nghiêm trì giới luật.

1. Vì sự kiện toàn của Tăng đoàn.

2. Vì sự an lành cho Tăng đoàn.

3. Để kiềm thúc những người có tâm xấu ác.

4. Vì sự an lạc cho chư Tăng có giới hạnh.

5.Để đoạn trừ các triền phược ở đây và bây giờ. 

6. Đoạn trừ các phiền trược ở vị lai.

7. Khiến người chưa có tín tâm sanh tín tâm.

8. Khiến nhiều người có tín tâm tăng trưởng thêm tín tâm.

9. Để chánh pháp được trường tồn.

10. Để giới luật được lưu hành.

Như vậy, này các Tỳ-kheo, tiến trình tu tập này nên được trình bày. [1]

Tổng quan về Luật Tạng(Vinaya-Piṭaka)

Quan điểm chung của Phật giáo đối với phụ nữ được thể hiện qua các điều luật của Tỳ-kheo-ni [2] (S. Bhikṣunī; P. Bhikkhunī) và Tỳ-kheo [3] (S. Bhikṣu, P. Bhikkhu) trong Luật tạng (Vinaya). [4]Khi đề cập đến các điều luật của Tỳ-kheo-ni, hầu hết các học giả Phật giáo, các nhà nghiên cứu, cũng như những người tu tập đều đồng ý rằng các điều luật trong Luật Tạng buộc Ni đoàn (Bhikṣunī saṅgha[5] phải lệ thuộc vào Tăng đoàn (Bhikṣu Saṅgha).[6] Nhiều người lầm lẫn cho rằng các điều luật trong Luật Tạng không công bằng, khắc khe với Tỳ-kheo-ni hơn, vì chư Ni có nhiều điều luật hơn, và kể cả Bát Kính Pháp chỉ áp dụng cho Tỳ-kheo-ni. Hơn nữa, nhiều Tỳ-kheo, và thậm chí các vị Tỳ-kheo-ni nghĩ rằng Tỳ-kheo-ni phải lệ thuộc vào Tỳ-kheo vì những điều quy định trong Bát Kính Pháp. Tóm lại, một số học giả Phật giáo, nhà nghiên cứu và các hành giả đều xác nhận rằng, thông qua các điều luật này, Tỳ-kheo-ni cũng như phụ nữ bị đối xử phân biệt. Kate Wheeler khẳng định: “Đức Phật yêu cầu chư Ni phải tuân giữ Tám Giới Đặc Biệt,[7] rõ ràng điều đó nói lên chư Ni phải nô dịch hoá cho chư Tăng… vì chư Ni phải giữ 227 giới như Tỳ-kheo, rồi còn “được” giữ thêm 84 giới nữa. Trong cùng một tội, các hình phạt của luật định giành cho chư Ni lại nặng nề hơn chư Tăng. [8]

Diana Y. Paul giải thích giới luật: “Bản văn đầu tiên được dịch dưới đây trình bày sự lệ thuộc của Ni đoàn đối với Tăng đoàn, cho thấy Ni đoàn bị mất đi quyền tự trị, và bị tước đoạt quyền lực để định nghĩa những bổn phận tôn giáo mà nữ giới phải thực hiện. Không giống như hệ thống tổ chức bên Thiên chúa giáo, các ma-sơ không bị lệ thuộc bên các linh mục. Chư Ni Phật giáo trong xã hội Ấn Độ cổ đại bị phụ thuộc vào chư Tăng, cơ cấu tổ chức của chư Ni cũng lệ thuộc hệ thống tổ chức của chư Tăng. Họ được chư Tăng trực tiếp hướng dẫn trong các buổi họp của nhị bộ Tăng.” [9]

Rita M. Gross cũng trình bày về vấn đề giới luật như sau: “…đặt chư Ni ở vị trí thấp hơn bất cứ một vị Tăng nào …” [10]

Nancy Schuster Barnes giải thích các điều luật: “Chính các giới chế địnhcho chư Ni đã đặt họ ở vị trí luôn luôn thấp hơn trong các mối quan hệ với chư Tăng. Chư Tăng đã duy trì quyền điều hành và lãnh đạo Tăng đoàn.” [11]

Richard H. Robinson và Willard L. Johson nói: “Đấng Giác Ngộ thừa nhận phụ nữ có khả năng chứng đạt quả vị A-la-hán, nhưng lại quy định Bát Kính Pháp cho chư Ni, trực tiếp đặt họ dưới quyền của chư Tăng.” [12]

Susan Murcott trình bày: “Tăng đoàn quản lý Ni đoàn, các giới luật và quy tắc của chư Ni lại nghiêm khắc hơn chư Tăng. Mục đích của các giới nghiêm khắc này là để kềm chế bản chất ngang ngạnh của phụ nữ và để giành quyền hành tuyệt đối cho chư Tăng.” [13]

Richard Gombirch tán thành: “… có hai cấp bậc trong xã hội mà Đức Phật không bao giờ đặt vấn đề tuổi tác và giới tính.” [14]

Uma Chakravarti phê bình: “Đủ loại cấm đoán đặt ra cho Tỳ-kheo-ni, ngay cả việc yêu cầu họ cúng dường phẩm thực cho chư Tăng khi chư Tăng đến ghé thăm.” [15]

Audrey Mck. Femandez nói: “Ngày nay chư Ni có hơn vài trăm giới [16] trội hơn chư Tăng, các giới này đã làm chư Ni phải khổ sở và ai mà biết họ còn phải tuân giữ bao nhiêu điều luật nữa trong đời sống của người xuất gia.” [17]

Mặc dù, hầu hết các học giả và các nhà nghiên cứu Phật giáo đều tán thành Tỳ-kheo-ni dưới quyền Tỳ-kheo Tăng là do có quá nhiều giới thêm vào cho Tỳ-kheo-ni và Bát Kính Pháp buộc họ phải tuân thủ, tôi vẫn không đồng ý với những ý kiến này. Hơn nữa, dựa vào thực tế của đời sống khi các giới hình thành, nếu khảo sát hoặc so sánh các điều luật của cả Tỳ-kheo và Tỳ-kheo-ni một cách tỉ mỉ, chúng ta sẽ thấy rằng các điều luật ấy hết sức thực tiễn và cảm thông cho đời sống tu sĩ cả Tăng lẫn Ni. Điều này phải được nhìn nhận một cách sâu sắc về “đời sống khất sĩ” [18] của chư Ni như đã mô tả trong Luật Tạng . Thật sailầm khi chúng ta chỉ dựa vào sự hiện diện của các giớitrội hơn cho Tỳ-kheo-ni mà lại khái quát hoá quan điểm của Phật giáo về phụ nữ nếu không khảo sát nguồn gốc của các giới đó hoặc bốicảnh xã hội.

Do đó, mục đích chính của bài viết này là khảo sát các giới của Tỳ-kheo và Tỳ-kheo-ni trong Giới Bổn.[19] Tôi tin rằng những nguyên tắc giới luật được qui định trong Giới Bổn của Tỳ-kheo và Tỳ-kheo-ni sẽ giúp chúng ta suy luận ra quan điểm của Phật giáo đối với phụ nữ. Bài viết này trình bày một lối giải thích khác về các giới bằng cách so sánh hai bộ luật Tỳ-kheo và Tỳ-kheo-ni.

Bộ Tứ Phần Luật tiếng Hoa của trường phái Pháp Tạng Bộ hay còn gọi là Đàm-vô-đức Bộ [20] (Dharmaguptaka) là bộ luật chính được khảo cứu trong bài viết này. Tuy nhiên, vì Bộ Luật Tứ Phần tiếng Hoa này chưa dịch sang tiếng Anh, do đó khi có các điều luật giống nhau giữa bản luật tiếng Hoa và bản luật Pāli [21], tôi sẽ dùng bản dịch tiếng Anh của bản luật Pāli để cho người Tây phương dễ tiếp cận. 

Theo W. Pachow, “Trong nhiều trường hợp, luật của trường phái Pháp Tạng Bộ rất gần gũi với bản luật Pāli, không chỉ về số lượng mà còn về nội dung, ngoại trừ phần VII [22] trong bộ Luật của Pháp Tạng Bộ có thêm 26 giới điều liên quan đến chùa tháp(stūpa)[23] Đó là điểm khác biệtcủa luật Pháp Tạng Bộ so với số các bộ luật khác.[24]

E. Frauwallner cũng nói: “Luật của trường phái Pháp Tạng Bộ là một bộ luật hoàn chỉnh nhất và được bảo trì tốt nhất trong các bộ luật. Số lượng và nội dung của bộ luật này rất gần gũi với số lượng và nội dung của bộ luật Pāli.” [25]

S. Dutt nói: “Tuy nhiên, bộ luật đầy đủ nhất đã được tìm thấy trong tạng Luật thuộc kinh điển Pāli của Thượng Toạ Bộ.” [26]

Chatsumarn Kabilsingh cũng giải thích, mặc dù không có chứng cứ xác định nào để chứng minh rằng bộ luật tiếng Pāli là bộ luật có nguồn gốc sớm nhất, tuy nhiên qua công trình nghiên cứu so sánh các giới trong sáu bộ luật, [27] bà gợi ý rằng nội dung của Luật Pāli rất cổ xưa và không có một điều luật nào được thêm vào như các bộ luật sau này,vì có một số giới của bộ luật Pāli có trong nội dung của các bộ luật khác. [28] Luật Pāli do Thượng Toạ Bộ lưu truyền và ngày nay vẫn được các Tỳ-kheothuộc trường phái Theravāda tuân giữ.Các nhà nghiên cứu như Herman Oldenberg [29], Rhys Davids và H. Oldenberg [30], và I. B. Horner [31] đã dịch bộ luật Pāli sang tiếng Anh.

Luật Pháp Tạng Bộ được Ngài Phật-đà-da-xá và Trúc Phật Niệm dịch sang tiếng Hoa là Tứ Phần Luật Tụnghay Tứ Phần Luật (Caturvaga Vinaya) khoảng vào năm 410 - 412 TL ở Trường An [32] - thủ đô của Trung Hoa thời bấy giờ. Tứ Phần Luật tiếng Hoa gồm 4 phần: Bhikṣu-vibhaṅga,[33] Bhikṣunī-vibhaṅga[34] Skandhaka[35] và các phần phụ lục. Tứ Phần Luật  ảnh hưởng rất lớn và được Tăng đoàn hành trì rộng rãi trong các nước Phật giáo khối Đông Á

Trong các tu viện ở Trung Hoa, Giới Bổn của Pháp Tạng Bộ được xem như là bộ luật căn bản. Ngoài ra, Tứ Phần Luật Tụng do Ngài Đạo Tuyên sáng lập ở Trung Hoa cũng công nhận bộ luật của Pháp Tạng Bộ như là bộ luật có thẩm quyền nhất.[36]

Ngày nay các giới khoản trong bộ Tứ Phần Luật vẫn được chư Tỳ-kheo và Tỳ-kheo-ni ở các nước như Trung Hoa, Triều Tiên và Việt Nam hành trì. Mặc dù Ni đoàn hiện nay trên thế giới thực hành theo truyền thống Pháp Tạng Bộ, nhưng cho đến bây giờ, tôi được biết bản Tứ Phần Luậttiếng Hoa chưa được dịch sang tiếng Anh, đặc biệt là phần các giới luật của Tỳ-kheo-ni [37]. Trong tác phẩm A Comparative Study of Bhikkhunī Pāṭimokkha (So Sánh Giới Bổn của Tỳ-kheo-ni), bà Kabilsingh nói rằng bà đã dựa vào bản Luật của Pháp Tạng Bộ tiếng Thái mà nó đã được dịch từ tiếng Hoa.[38] Dưới đây tôi nêu lên ý nghĩa các giới luật chứ không chuyển dịch theo từng từ. Để hiểu các giới một cách dễ dàng hơn, tôi có kèm theo những bảng so sánh các giới luật của Tỳ-kheo và Tỳ-kheo-ni theo mỗi tụ trong hai bộ Giới Bổn.

Giới Bổn là một tuyển tập các giới luật trong Luật Tạng (Vinaya Piṭaka - một trong ba kho tàngthuộc kinh điển Phật giáo). Ba kho tàng này cũng còn được gọi là Tam Tạng (Tripiṭaka). Ngoài Luật Tạng, hai tạng khác là Kinh Tạng (S. Sūtra Piṭaka, P. Sutta Piṭaka); và Luận Tạng (S & P. Abhidharma Piṭaka). Nhiều học giả giải thích ý nghĩa của thuật ngữ Prātimokṣa (P. Pāṭimokkha) như dưới đây, tuy nhiên các giải thích đó vẫn còn mang tính cách suy đoán. 

Sukumar Dutt và Gokuldas De đại diện cho quan điểm số đông phát biểu: “Pāṭimokkha…có thể tương đương với từ Sankrit là Prātimokṣa, từ nguyên của nó có thể được giải thích như là vật gì đó dùng để trói buộc, tiếp đầu ngữ prāti có nghĩa “ngược lại” và từ căn mokṣa nghĩa là “sự vung vãi,” tôi cũng chưa thể tìm ra một ví dụ nào để minh hoạ cách dùng từ chính xác trong ý nghĩa này trong văn bản Sanskrit.[39] Thuật ngữ “Pāṭimokkha” xuất phát từ thuật ngữ “mokṣa” nghĩa là tự do, khi kết hợp với tiếp đầu ngữ “prāti” thì nghĩa của nó bị đảo ngược lại, ví dụ như từ: pratisrota, pratigāmi, pratikula v.v...). Prātimokṣa, khi là một tính từ, có nghĩa “lệ thuộc” hay “ràng buộc”. Từ Prātimokṣa, khi nó là một danh từ cũng được viết là Prātimokṣa, có nghĩa là “trói buộc”, từ này viết theo chữ Pāli là Pāṭimokkha, và đây là nghĩa chính xác mà bộ Giới Bổn (Pāṭimokkha)sử dụng.[40]

Giới Bổn (Prātimokṣa) gồm có hai phần là Giới Bổn Tăng Giới Bổn Ni, vì bộ này liên hệ đến Tỳ-kheo và Tỳ-kheo-ni. Tứ Phần Luật của Pháp Tạng Bộ bao gồm giới của chư Tăng và chư Ni trong hai phần: Tứ Phần Luật Tỳ-kheoTứ Phần Luật Tỳ-kheo-ni . Tứ Phần Luật Tỳ-kheo-ni có bảy tụ, trong khi đó Tứ Phần Luật Tỳ-kheo có tám tụ vì có thêm tụ Bất Định Pháp[41] (S. aniyata dharma). Để phân tích, đối chiếu hết các giới trong mỗi tụ, tôi sẽ lần lượt trình bày từng tụ của các giới như: Ba-la-di, Tăng-già-bà-thi-sa, Bất Ðịnh, Ni-tát-kỳ-ba-dật-đề, Ba-dật-đề, Ba-dật-đề-đề-xá-ni, Chúng học pháp, Diệt tránh.[42] Cuối cùng tôi sẽ khảo sát cặn kẽ Bát Kính Pháp bằng cách so sánh Bát Kính Pháp với cácgiới trong tụ Ba-dật-đề để thấy rõ Bát Kính Pháp chỉ là sự tự ý thêm vào và chỉ qui định cho Tỳ-kheo-ni.

 
[1] Sacred Book Series, Tập X. pp. 37-38.
[2] Tỳ-kheo-ni là một vị Ni đã thọ cụ túc giới. Trong Tăng đoàn Phật giáo, việc thọ giới của nữgiới theo 3 trình tự: 1. Sa-di(S. śrāmaṇerī; P.sāmaṇerī)phải tuân thủ 10 giới cấm: i. Cấm sát sanh; ii. Cấm trộm cắp; iii. Cấm dâm dục; iv. Cấm nói láo; v. Cấm uống rượu; vi. Cấm trang điểm phấn son; vii. Cấm đờn ca múa hát và tiêu dao; viii. Cấm ngồi nằm giường cao ghế đẹp; ix. Cấm ăn sái giờ; x. Cấm giữ vàng bạc. (Đại Chánh Tân TuĐại Tạng Kinh (viết tắt là Ðại Chánh Tạng), Tập XII, pp. 1042, 1048). 2. Khi đến 18 tuổi, vị Sa-di-ni phải có thời gian tu tập chuyển tiếp gọi là Thức-xoa-ma-na (S. śīkṣmāṇa; P. sikkhamana). Thức-xoa-ma-na phải tuân giữ 6 giới trong 2 năm (xem cước chú 24 của Phần V). Nội dung và số lượng của 6 giới này trong các bộ luật của các trường pháiđều khác nhau, nhưng việc thọ giới chủ yếu là phải trải qua một giai đoạn tu tập để chuẩn bị thọ cụ túc giới Tỳ-kheo ni. Tỳ-kheo không có thọ Thức-xoa-ma-na. Một vị sa-di (S. śrāmaṇera; P. sāmaṇera) đã thọ 10 giới, khi được 20 tuổi vị ấy có thể thọ cụ túc giới Tỳ-kheo, còn sa-di-ni khi được thọ 10 giới rồi, phải thọ Thức-xoa-ma-na.
[3] Vị tu sĩnam của Phật giáo đã thọ cụ túc giới (227 giới hoặc 250 giới). 
[4]Những điều luật trong bộ luật Phật giáo.
[5] Ni đoàn Phật giáo.
[6] Tăng đoàn Phật giáo.
[7] Bát Kính Pháp
[8] Kate Wheeler, “Bowing Not Scraping” in Tricycle, ed. Helen Tworkov (NJ: Mark Printing Corp., 1993), p. 27
[9] Diana Y. Paul, Women in Buddhism: Images of the Feminine in the Mahāyāna Tradition (Berkeley: University of California Press, 1985), p. 80.
[10] Rita M. Gross, “Buddhism and Feminism: Toward Their Mutual Transformation” , The Eatern Buddhist (Tokyo: Komiyama Printing Co., 1986), p. 46
[11] Nancy Schuster Barnes, “Buddhism” in Women in World Religions, ed. Arvind Sharma (Albany: State University of New York Press, 1987), p. 108.
[12] Richard H. Robinson and Willard L. Johnson, The Buddhist Religion: A Historical Introduction (Belmont: Wadsworth Publishing Company, 1987), p. 57
[13] Susan Murcott, The First Buddhist Women: Translations and Commentary on the Therīgathā (Berkey: Parallax Press, 1991), p. 196.
[14] Richard F. Gombrich, Theravāda Buddhism: A Social History from Ancient Benares to Modern Colombo (London and New York: Routledge, 1991), p. 105.
[15] Uma Chakravarti, The Social Dimension of Early Buddhism (Delhi: Oxford University Press, 1987), p. 33. 
[16] Không có Giới Bổn của một trường phái nào đề cập số giới Tỳ-kheo-ni hơn số giới của Tỳ-kheo 200 giới cả (chú thích của người dịch).
[17] Audrey Mck. Fernandez, “ Women in Buddhism” in Women & Buddhism: A Special Issue of Spring Wind-Buddhist Cultural Forum. Voḷ 6, No. 1,2,& 3. Published by the Zen Lotus Society (Ontario: Spring Wind, 1986), p. 39.
[18] Tôi theo thuật ngữ của I.B. Horner đã dùng để miêu tả đời sống của Tỳ-kheo và Tỳ-kheo-nilà “alms life” (đời sống khất sĩ). Một số học giả Phật giáo dùng “homeless life” (đời sống không gia đình) hoặc “monastic life” (đời sống tu viện).
[19] Các điều luật của Tỳ-kheo và Tỳ-kheo-ni tụng đọc trong mỗi nửa tháng.
[20] Xem E. Frauwallner, The Earliest Vinaya and the Beginnings of Buddhist Literature (Stampato, Italia: Roma Iṣ Ṃ E. O., 1956) pp. 180-182
[21] Xem Frauwallner, pp. 184-94
[22] Các giới trong phần Chúng Học Pháp, vì tác giả theo sự phân loại của Giới Bổn Tăng, phầnnày nằm ở vị trí thứ VII, nếu theo sự phân loại của Giới Bổn Ni thì phần Chúng Học Pháp là phần VI, vì không có phần Bất Định Pháp (chú thích của người dịch).
[23] Đền tháp có hình vòm, nơi thờ cúng xá-lợitheo truyền thống Phật giáo và Kỳ-na giáo.
[24] W. Pachow, A Comparative Study of the Prāṭimokṣa: On the Basis of Its Chinese, Tibetan, Sanskrit and Pāli Versions (Santinetan: Sino-Indian Cultural Society, 1955), p. 42.
[25] Frauwallner, pp. 181, 185. 
[26] Sukumar Dutt, The Buddha and Five After-Centuries (Calcutta: Sahitya Samsad, 1978), p. 110. 
[27] Charles S. Prebish (p. 28) nói rằng “chúng tôi tìmđược các bộ luật đầy đủ của sáu trường phái: Mahāsaṅghika [Đại Chúng Bộ], Theravāda [Thượng Toạ Bộ], Mahīśāsaka [Hoá Địa Bộ], Dharmaguptaka [Pháp Tạng Bộ], Sarvāstivāda [Nhất Thiết Hữu Bộ], Mūlasarvāstivāda [Căn Bản Nhất Thiết Hữu Bộ]. (Buddhist Monastic Discipline: The Sanskrit Prāṭimokṣa Sūtras of the Mahāsaṅghikas and Mūlasarvāstivādins (University Park and London: The Pennsylvania State University Press, 1975).
[28] Chatsumarn Kabilsingh, A Comparative Study of Bhikkhunī Pāṭimokkha (Delhi: Chaukhambha Orientalia, 1984), p. 97. 
[29] Luật Pāli do H. Oldenberg xuất bản (The Vinaya-Piṭaka in Pāli, 5 Vols, London, 1879) và sau này được Hội Thánh Điển Pāli (The Pali Text Society) in lại.
[30] Giới Bổn (Pāṭimokkha) được xuất bản. Bản dịch tiếng Anh từng phần của nguyên bộ Luật Pāliđược in trong bộ Thánh Điển Phương Đông (The Sacred Books of the East).
[31] Bản dịch tiếng Anh đầy đủ của bộ Luật Pāli với tựa đề là The Book of Discipline (Vols. 10,11,13, 14, 20, 25) được in trongbộ Thánh Điển Phật Giáo (The Sacred Books of the Buddhists).
[32] Akira Hirakawa, Monastic Discipline for the Buddhist Nuns: An English Translation of the Chinese Text of the Mahāsāṅghika-Bhikṣuṇī-Vinaya(Patna, India: K. P. Jayaswal Research Institute, 1982), p.8, 415.
[33] Giải thích luật Tỳ-kheo.
[34] Giải thích luật Tỳ-kheo-ni.
[35] Các thủ tục hội họp và các pháp yết-ma khác của Tăng đoàn.
[36] Kabilsingh, p. 153.
[37] Giới Bổn Ni trong Tứ Phần Luậtcủa Pháp Tạng Bộ đã được Ann Hermann dịch sang tiếng Anh dưới tiêu đề Rules for Nuns according to the Dharmaguptakavinaya (3 parts) , do nhà xuất bản Motilal Banarsidass Publishers Pvt. Ltd tại Delhi, Ấn Ðộ ấn hành năm 2002. (ghi chú của người dịch). 
[38]Kabilsingh, pp. ix-x.
[39] Sukumar Dutt, Early Buddhist Monasticism (New Delhi: Munshiram Manoharlal Publishers Pvt. Ltd., 1984), pp. 72-3.
[40] Gokuldas De, Democracy in Early Buddhist Saṅgha (Calcultta: Calcultta University, 1955), p. 60. 
[41] Các phần và số lượng các điều luật của Tỳ-kheo và Tỳ-kheo-ni:

(1) Ba-la-di (Pārājika dharma) .................................. 4 / 8
(2) Tăng-già-ba-thi-sa (Saṁghāvaśeṣa dharma)..... 13 / 17
(3) Bất định (Aniyata dharma)...........................………... 2 / 0 
(4) Ni-tát-kỳ-ba-dật-đề (Niḥsargika-Pāyantika dharma) 30 / 30
(5) Ba-dật-đê (Pāyantika dharma).......…………………90 / 178
(6) Ba-dật-đề-đề-xá-ni (Pratideśaniiya dharma).………... 4 / 8
(7) Chúng-học-pháp (Śaikṣa dharma)............. ………100 / 100
(8) Diệt-tránh (Adhikaraṇa-Śamatha dharma)..………….. 7 / 7
Tổng cộng: 250 / 348 giơí.

[42] Tôi trình bày thuật ngữ chuyên môn trong Sanskrit theo cách Charles S. Prebish đã trình bày.

Giới thiệu | 1 | 2 | 3 | 4 | 5 | 6 | 7 | 8 | 9 | Lời người dịch

 
[ Trở Về