Người Cư Sĩ          [ Trở Về         [Trang chủ]

Trung Bộ Kinh - Bài Kinh số 38

Kinh Dài : Ðoạn Tận Ái
( Mahàtanhàsankhayasuttam )
- Greater Discourse On The Destruction Of Craving -

Hòa thượng Thích Chơn Thiện


I. GIẢI THÍCH TỪ NGỮ 

- Đoàn thực : Kabalinkàro àhàro: bodily nutriment of contact : chỉ thức ăn qua miệng; thực phẩm nuôi sống cơ thể; không có thức ăn thì cơ thể sẽ chết.

- Xúc thực : Phassàhàro : Nutriment of contact: Xúc là thúc ăn nuôi dưỡng sự sống; không có xúc thì sự sống sẽ kết thúc.

- Tư niệm thực : Manosancetanàhàro Nutriment of volition : YÙ chí, tác ý là thức ăn nuôi dưỡng sinh mạng: không có tư niệm thì con người cũng không hiện hữu.

- Thức thực : Vinnanam àhàro : Nutriment of Consciousness : Thức là thức ăn nuôi sống con người; thiếu thức, con người ngũ uẩn không còn hiện hữu.

( Bốn thức ăn trên nuôi dưỡng, duy trì năm uẩn )

- Hương ấm : gandhabba : is explained as the being who is coming into the womb : được hiểu là chúng sinh nhập thai : hiểu như có một nghiệp thức đi vào bào thai, hay gọi là dẫn nghiệp.

Ghi chú : Bản kinh này, trong Đại Tạng kinh Việt Nam, có sự in nhầm ở trang 568 và trang 570, xin sửa lại như dưới đây ( dựa vào bản Pàli và bản dịch anh ngữ ) :

1. Trang 568 : ( Sửa một số câu của 14 dòng đầu )

Đoạn dịch sát nguyên bản là :

- Nầy các Tỷ kheo, do thấy như thật với chánh trí tuệ rằng sanh vật nầy có mặt thì sự nghi ngờ có thể loại bỏ, có phải thế không ?

- Bạch Thế Tôn, có vậy.

- Nầy các Tỷ kheo, nếu thấy như thật với Chánh trí tuệ Sự tác thành của món ăn thì sự nghi ngờ có thể bị loại bỏ, có phải thế không ?

- Bạch Thế Tôn, có vậy.

- Nầy các Tỷ kheo, nếu thấy như thật với Chánh trí tuệ rằng do sự đoạn diệt các món ăn ấy, sanh vật có thể bị đoạn diệt, thì sự nghi ngờ có thể bị loại bỏ, có phải thế không ?

- Bạch Thế Tôn, có vậy.

2.Trang 570 : ( từ dòng 5 đến dòng 13, viết lại như dưới đây )

- Nhưng nầy các Tỷ kheo, đối với tri kiến nầy được thanh tịnh như vậy, được làm cho trong sáng như vậy, nếu các ông không chấp trước, không lấy làm hãnh diện, không truy cầu, thì nầy các Tỷ kheo, các ông có thể hiểu ví dụ chiếc bè, nói Pháp được giảng dạy là để vượt qua, không phải để nắm lấy.

II. NỘI DUNG KINH DÀI ĐOẠN TẬN ÁI

1. Tỷ kheo Sati có tà kiến rằng :" Thức nầy dong ruổi, luân chuyển, nhưng không đổi khác". Và :" Chính thức ấy nói, cảm thọ, thọ lãnh chỗ nầy, chỗ kia, kết qủa các hành động thiện ác."

Đức Phật đã dạy :

- " Thức do duyên mà khởi, không có duyên thì thức không hiện khởi."

- " Có bốn món ăn giúp cho an trú các loài hữu tình đã sanh hay phò trợ các loài hữu tình sẽ sanh, đó là đoàn thực, xúc thực, tư niệm thực, và thức thực" ( Bốn món ăn cũng do các nhân duyên sanh : đủ 12 chi phần duyên khởi )

- Biết các pháp đều do sự vận hành của 12 nhân duyên sanh thì sẽ suy nghĩ về Cái Ta trong quá khứ, Cái Ta trong tương lai, hay Cái Ta trong hiện tại ( có mặt hay không có mặt; có mặt như thế nào ? v.v... )

2. Hiểu pháp như vậy, vị Tỷ kheo trở về tinh cần sống đời sống phạm hạnh : thiểu dục, tri túc, sống viễn ly, hộ trì các căn, giữ gìn giới bổn, tẩy sạch cấu tâm, trừ ngũ cái, thành tựu hiện tại lạc trú, tinh cần đoạn trừ tham ái khởi lên từ các căn, nhiếp phục các cảm thọ. Do tham ái diệt nên thủ diệt,..., sầu, bi; khổ, ưu, não diệt.

Đây là nội dung của kinh Ái tận.

III. BÀN THÊM

1. Do bốn thức ăn làm nhân làm duyên mà con người có mặt tồn tại; do ái làm nhân làm duyên mà bốn loại thức ăn hiện khởi và liên tục tồn tại; chính ái làm nhân làm duyên cho sự tập khởi của con người, cho sự tập khởi và vận hành của các uẩn. Tà kiến của Sati là do Ái làm nhân, làm duyên mà có: do Ái mà sinh khởi chấp thủ ngã cho rằng thức luân chuyển nhưng không đổi khác.

2. Nếu cho Ái là nguyên nhân đầu tiên và duy nhất phát sinh tà kiến, thì lại rơi vào " tà kiến của Tỷ kheo Sati ". Theo sự thật Duyên Khởi, Thọ là nhân là duyên sinh khởi Ái; Thọ do xúc...; Xúc do Lục nhập...; Lục nhập do Danh sắc...; Danh sắc do Thức...; Thức do Hành...; Hành do Vô minh...; tất cả các duyên ấy là do sự vận hành của Duyên Khởi ( 12 Chi nhân duyên )

Bởi con người xem ái như là chính mình, như là hiện hữu của chính mình, như là lẽ sống của chính mình, nên Tỷ kheo cần tập trung công phu đoạn tận Ái. Ái tận thì Thức tận, Hành tận, Vô minh tận, Khổ tận.

3. Công phu đoạn tận Ái là công phu hành phạm hạnh qua các bước thực hành ( như được đề cập ở các kinh trước, đặc biệt từ kinh 11 đến kinh 20 ) như sau :

- Từ bỏ đời sống thế tục, sống đời sống xuất gia với hạnh thiểu dục, tri túc, viễn ly, tinh cần.

- Tẩy trừ " Ngũ cái ", tẩy trừ tâm cấu uế, thành tựu Thánh giới uẩn.

- Thành tựu hiện tại lạc trú, Thánh định uẩn.

- Tiếp tục theo dõi đoạn Ái khởi lên từ sáu căn cho đến khi Ái được đoạn tận.

4. Trong suốt thời gian người giác ngộ, trước khi xuất gia con người luôn luôn bị trói chặt bởi lòng tham ái và sự chấp thủ tự ngã, tâm mãi dong ruỗi theo vị ngọt của sáu trần và mãi vướng mắt vào những tưởng nghĩ về cái Ta trong quá khứ, trong hiện tại và trong cả tương lai. Xuất gia rồi, khi chưa tuệ tri các pháp thì tâm thức vẫn chìm trong vòng lao lý của ái, thủ. Sau khi đã tuệ tri thì tập khí ái, thủ vẫn còn ở nội thọ và còn nằm phục ở sáu căn, sáu trần và sáu thức. Điều nầy đòi hỏi vị Tỷ kheo tinh cần, nỗ lực tỉnh giác liên tục tiểu trừ chúng cho đến khi mục tiêu phạm hạnh được chứng đạt. Đó là những gì đã bao hàm trong những lời dạy của Thế Tôn được thuật lại trong kinh dài Đoạn Tận Ái.

-ooOoo-

( Nguyên Trừng đánh máy theo ấn bản do Hòa Thượng Chơn Thiện trao tặng)

[Trích giảng Trung Bộ]

last updated: 22-06-2003